Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 49/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 49/2024/LĐ-ST NGÀY 20/09/2024 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI

Vào ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dƣơng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số 206/2024/TLST– LĐ ngày 14 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đƣa vụ án ra xét xử số 473/2024/QĐXXST-LĐ ngày 29 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2024/QĐST-LĐ ngày 13 tháng 9 năm 2024, giữa các đƣơng sự:

- Nguyên đơn: bà Thị D, sinh năm 1994; thƣờng trú: ấp đƣờng G, xã L, huyện G, tỉnh Kiên Giang; địa chỉ liên hệ: số C đƣờng Đ, phƣờng T, huyện B, tỉnh Bình Dƣơng, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Công ty TNHH R; trụ sở: số D đƣờng Đ, khu phố Đ, phƣờng T, thành phố D, tỉnh Bình Dƣơng.

Người đại diện hợp pháp: ông Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1970; địa chỉ: Tầng I, tòa nhà V, số A Đ, phƣờng Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh là ngƣời đại diện theo uỷ quyền. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội thành phố D, tỉnh Bình Dƣơng; địa chỉ: Trung tâm hành chính thành phố D, tỉnh Bình Dƣơng.

Người đại diện hợp pháp: ông Dƣơng Văn T, sinh năm 1988; địa chỉ liên lạc: A khu phố T, phƣờng T, thành phố D, tỉnh Bình Dƣơng, là ngƣời đại diện theo ủy quyền, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Thị D trình bày:

Bà Thị D là công nhân làm việc tại Công ty TNHH R và có ký Hợp đồng lao động với bà D từ tháng 3/2022 đến tháng 10/2022, đảm nhận vị trí công nhân bộc nệm, với mức lƣơng cơ bản 6.900.000 đồng, ngoài ra còn có khoản tiền phụ cấp khác là 1.400.000 đồng, tổng cộng tạm tính là 8.300.000 đồng.

Trong thời gian bà D làm việc nêu trên tại Công ty, mỗi tháng công ty TNHH R vẫn trích từ tiền lƣơng của bà để đóng bảo hiểm. Tuy nhiên, từ tháng 9/2022 đến tháng 10/2022 Công ty TNHH R chƣa đóng bảo hiểm cho bà D.

Bà D là công nhân làm công ăn lƣơng, cuộc sống còn nhiều khó khăn nhƣng Công ty TNHH R không đóng bảo hiểm cho bà D từ tháng 9/2022 đến tháng 10/2022 cho bà đã làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà D.

Vì vậy, bà Thị D yêu cầu Toà án buộc Công ty TNHH R đóng bảo hiểm xã hội cho bà D từ tháng 9/2022 cho đến tháng 10/2022 và lập hồ sơ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bà Thị D trong khoảng thời gian từ tháng 8/2022 đến tháng 10/2022.

- Tại văn bản ý kiến ngày 20/8/2024 người đại diện theo pháp luật của bị đơn là bà Ngô Thị Minh H và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Thanh Đ thống nhất trình bày:

Bà Thị D có quan hệ lao động tại công ty TNHH R. Công ty TNHH R xác nhận từ tháng 9/2022 đến tháng 10/2022 chƣa đóng tiền bảo hiểm xã hội và chƣa xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 8/2022 đến tháng 10/2022 cho bà D theo quy định, mặc dù hàng tháng công ty vẫn trích từ tiền lƣơng của bà D. Nay, bà D khởi kiện yêu cầu đóng và xác nhận quá trình tham gia BHXH thì công ty đồng ý. Công ty TNHH R cam kết đóng, xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cho bà D theo quy định.

- Tại bản tự khai ngày 20/8/2024 đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố D, ông Dương Văn T trình bày:

Qua kiểm tra đối chiếu dữ liệu tham gia BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) của Công ty TNHH R cho ngƣời lao động thì Công ty có tham gia BHXH, BHYT, BHTN cho bà Thị D, sinh năm 1994, số CCCD 091194005608, với mã số BHXH 7413204278 từ tháng 08/2022 đến tháng 10/2022 tại Công ty TNHH R. Tính đến tháng 07/2024, Công ty TNHH R đã đóng hết tiền tháng 08/2022 và còn nợ số tiền 417.904.109 đồng.

Về yêu cầu chốt sổ và trả sổ BHXH của bà Thị D tại Công ty TNHH R, BHXH D đề nghị Công ty TNHH R thanh toán số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN tính riêng bà Thị D cho cơ quan B đến thời điểm nghỉ việc và làm hồ sơ bảo lƣu BHXH gửi lên BHXH Dĩ An để BHXH Dĩ An bảo lƣu sổ, trả tờ rời bảo lƣu cho bà Thị D theo đúng quy định.

Về các yêu cầu khác của Bà Thị D, BHXH D không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã đƣợc xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: nguyên đơn khởi kiện tranh chấp bảo hiểm xã hội phát sinh từ quan hệ lao động với bị đơn. Bị đơn có trụ sở tại số D, đƣờng Đ, khu phố Đ, phƣờng T, thành phố D, tỉnh Bình Dƣơng. Vì vậy, đây là vụ án “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dƣơng đƣợc quy định tại điểm d khoản 1 Điều 32, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đƣơng sự: Nguyên đơn và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[3] Quá trình tố tụng, nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất chƣa đóng và chốt BHXH cho nguyên đơn theo quy định. Đây là sự thừa nhận của các đƣơng sự cho nên không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng: Căn cứ vào sự thừa nhận của các đƣơng sự có cơ sở xác định giữa nguyên đơn với bị đơn có quan hệ lao động với nhau. Quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị đơn trên tinh thần tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên có giá trị và hiệu lực thi hành. Quá trình làm việc nguyên đơn đƣợc bị đơn tham gia bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố D và hàng tháng bị đơn vẫn trích tiền lƣơng của nguyên đơn để tham gia bảo hiểm xã hội, nhƣng bị đơn không đóng cho Cơ quan bảo hiểm xã hội nên Cơ quan bảo hiểm xã hội không chốt sổ cho bà D theo quy định đƣợc.

Việc đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 19 “Trách nhiệm của người lao động 1. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này…” và khoản 2 Điều 21 “Trách nhiệm của người sử dụng lao động 2. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 và hằng tháng trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội…” Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Theo lời trình bày của ngƣời đại diện hợp pháp của Bảo hiểm xã hội thành phố D xác nhận công ty TNHH R có tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 08/2022 đến tháng 10/2022 cho bà L nhƣng công ty chƣa đóng tiền bảo hiểm xã hội, công ty TNHH R nợ tiền bảo hiểm từ tháng 08/2022 cho đến tháng 10/2022, nên chƣa thể chốt sổ bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Quá trình tố tụng, bị đơn cũng thừa nhận chƣa đóng bảo hiểm xã hội cho bà D của tháng 9/2022 và tháng 10/2022. Nhƣ vậy, việc bị đơn đã trừ tiền lƣơng hàng tháng của nguyên đơn nhƣng không trích nộp tiền bảo hiểm xã hội, không chốt sổ bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn là vi phạm đến quyền lợi, hợp pháp của nguyên đơn theo quy định tại khoản 5 Điều 21 “5. Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật” và là hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 17 “Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp” Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 09/2022 cho đến tháng 10/2022 và lập hồ sơ xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm xã hội là có căn cứ.

[5] Từ những phân tích trên, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. [6] Về án phí lao động sơ thẩm: bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 32, 40, 92, 147, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

căn cứ các Điều 17, 19 và 21 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thƣờng vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Thị D đối với Công ty TNHH R về việc tranh chấp về bảo hiểm xã hội.

Buộc Công ty TNHH R có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 9/2022 đến tháng 10/2022 và xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm xã hội cho bà Thị D.

2. Án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH R phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn đồng) án phí không có giá ngạch.

3. Đƣơng sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mƣời lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đƣơng sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mƣời lăm) ngày kể từ ngày nhận đƣợc bản án hoặc bản án đƣợc niêm yết.

4. Trƣờng hợp bản án, quyết định đƣợc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì ngƣời đƣợc thi hành án dân sự, ngƣời phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cƣỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đƣợc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 49/2024/LĐ-ST

Số hiệu:49/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 20/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;