Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 47/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 47/2024/LĐ-ST NGÀY 16/09/2024 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số: 207/2024/TLST-LĐ ngày 14 tháng 8 năm 2024 về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2024/QĐXXST-LĐ ngày 30 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Huy T, sinh năm 1994. Thường trú: Thôn T, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Thuận, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Công ty TNHH S. Địa chỉ: số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1970. Địa chỉ liên hệ: Văn phòng L, tầng 9 Tòa nhà VNO, số A, đường Đ, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Hợp đồng ủy quyền ngày 28/8/2024), có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bảo hiểm xã hội thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: số D đường Đ, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Bảo V, sinh năm 1973; địa chỉ: số D, đường Đ, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền ngày 16/9/2024), có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo Đơn khởi kiện ngày 13 tháng 8 năm 2024 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Nguyễn Huy T trình bày:

Ông Nguyễn Huy T là công nhân làm việc tại Công ty TNHH S (gọi là Công ty S), địa chỉ: số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Ông T làm việc tại Công ty S, Công ty có ký Hợp đồng lao động với ông T vào tháng 11/2020 thời hạn là 01 năm. Sau đó khi hết hạn hợp đồng ông T vẫn tiếp tục làm việc tới tháng 3/2024, Công ty đã nhiều lần hứa hẹn sẽ ký hợp đồng tiếp tục với ông T nhưng vẫn không thực hiện, ông T đảm nhận vị trí nhân viên thiết kế, với mức lương cơ bản là 15.000.000 đồng, ngoài ra còn có các khoản phụ cấp là 5.237.500 đồng. Tổng cộng là 20.237.500 đồng.

Trong thời gian ông T làm việc tại Công ty, mỗi tháng Công ty vẫn trích từ tiền lương của ông T để đóng bảo hiểm. Tuy nhiên, từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024, Công ty S chưa đóng bảo hiểm cho ông T. Việc Công ty S không đóng bảo hiểm cho ông T từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024 làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông T. Nay, ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Buộc Công ty TNHH S đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho ông Nguyễn Huy T từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024 và lập hồ sơ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của ông Nguyễn Huy T trong khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024 cho ông Nguyễn Huy T.

- Tại văn bản ý kiến và tại phiên tòa, bị đơn Công ty TNHH S trình bày:

Ông Nguyễn Huy T làm việc cho Công ty S tại địa chỉ: số D đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Công ty S chưa đóng bảo hiểm xã hội và chưa lập hồ sơ xác nhận bảo hiểm xã hội từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024 cho ông Nguyễn Huy T. Đồng thời Công ty S chưa đóng bảo hiểm thất nghiệp cho ông Nguyễn Huy T từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024 và chưa lập hồ sơ xác nhận bảo hiểm thất nghiệp cho ông T từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024. Do tình hình hoạt động kinh doanh hiện tại rất khó khăn vì vậy Công ty S xác nhận chưa thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp trong trường hợp nêu trên. Công ty S cam kết thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm cho người lao động theo đúng quy định của pháp luật sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố T trình bày:

Căn cứ dữ liệu của ngành Bảo hiểm xã hội, người lao động Nguyễn Huy T (sinh năm 1994, mã số bảo hiểm xã hội 5820845361, số căn cước công dân 058094004956) có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp tại Công ty TNHH S như sau:

- Từ tháng 01/2021 đến tháng 01/2021, chức vụ, chức danh công việc là nhân viên thiết kế, mức đóng là 11.000.000 đồng.

- Từ tháng 02/2021 đến tháng 3/2024, chức vụ, chức danh công việc là nhân viên thiết kế, mức đóng là 15.000.000 đồng.

Tính đến tháng 7/2024, Công ty S còn nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp số tiền 1.944.331.112 đồng, đóng bảo hiểm xã hội hết tháng 9/2020. Bảo hiểm xã hội thành phố T không lưu giữ bản sao giấy đăng ký doanh nghiệp của Công ty S và các hợp đồng lao động đã ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định; không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập và các đương sự cung cấp đã được thẩm tra tại phiên tòa, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận toàn bộ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: nguyên đơn khởi kiện tranh chấp bảo hiểm xã hội phát sinh từ quan hệ lao động với bị đơn. Nguyên đơn lựa chọn Tòa án nơi làm việc giải quyết tranh chấp, cụ thể nơi nguyên đơn làm việc tại số D, đường Đ, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Vì vậy, đây là vụ án “Tranh chấp bảo hiểm xã hội” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương được quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm đ khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[3] Quá trình tố tụng, nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất về thời gian chưa đóng và xác nhận thời gian bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho nguyên đơn theo quy định. Đây là sự thừa nhận của các đương sự nên không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về nội dung:

Căn cứ vào sự thừa nhận của các đương sự có cơ sở xác định giữa nguyên đơn với bị đơn có quan hệ lao động với nhau. Quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị đơn trên tinh thần tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên có giá trị và hiệu lực thi hành. Quá trình làm việc nguyên đơn được bị đơn tham gia bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh và hàng tháng bị đơn vẫn trích tiền lương của nguyên đơn để tham gia bảo hiểm xã hội, nhưng bị đơn không đóng cho Cơ quan bảo hiểm xã hội nên Cơ quan bảo hiểm xã hội không chốt số cho ông T theo quy định được.

Việc đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 19 “Trách nhiệm của người lao động 1. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này...” và khoản 2 Điều 21 “Trách nhiệm của người sử dụng lao động 2. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 và hàng tháng trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội...” Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Theo lời trình bày của người đại diện hợp pháp của Bảo hiểm xã hội thành phố T xác nhận Công ty S có tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho ông T từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024. Tuy nhiên, tính đến tháng 7/2024 Công ty S mới chỉ đóng Bảo hiểm xã hội hết tháng 9/2020. Như vậy, khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024, bị đơn đang nợ tiền bảo hiểm xã hội nên chưa thể chốt số bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, tại phiên tòa, nguyên đơn Công ty S cũng thừa nhận chưa đóng bảo hiểm xã hội và chưa lập hồ sơ xác nhận bảo hiểm xã hội từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024 cho ông Nguyễn Huy T. Đồng thời Công ty S chưa đóng bảo hiểm thất nghiệp cho ông Nguyễn Huy T từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024 và chưa lập hồ sơ xác nhận bảo hiểm thất nghiệp cho ông T từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024.

Như vậy, việc bị đơn đã trừ tiền lương hàng tháng của nguyên đơn nhưng không trích nộp tiền bảo hiểm xã hội, không chốt số bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn là vi phạm đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn theo quy định tại khoản 5 Điều 21 “5. Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật” và là hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 17 “Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp” Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

[5] Từ những phân tích trên có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn ông Nguyễn Huy T được miễn án phí. Bị đơn Công ty S phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 32, 40, 92, 147, 227, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; căn cứ các Điều 48 của Bộ luật Lao động năm 2019; căn cứ các Điều 17, 19 và 21 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Huy T đối với bị đơn Công ty TNHH S về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội”:

Buộc Công ty TNHH S đóng và xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến tháng 3/2024 cho ông Nguyễn Huy T.

2. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH S phải chịu 300.000 đồng.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 47/2024/LĐ-ST

Số hiệu:47/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 16/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;