Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 04/2021/LĐ-ST

           TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2021/LĐ-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số: 63/2020/TLST-LĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đƣa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-LĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST-LĐ ngày 06 tháng 8 năm 2021, Thông báo mở lại phiên tòa ngày 11 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2021/QĐST-LĐ ngày 04 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn C, sinh năm 1967; địa chỉ: Ấp V, xã L, huyện Đ, tỉnh B, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn:

1. Công ty TNHH P; trụ sở: Số 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phường B, thành phố D, tỉnh B, vắng mặt.

2. Công ty TNHH T; địa chỉ: Số 1191 Lê Đức Thọ, Phường N, quận G, Thành phố H, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội thành phố D, tỉnh B, địa chỉ: Trung tâm hành chính thành phố D, tỉnh B.

Người đại diện hợp pháp: Anh Dương Văn T; chức vụ: Nhân viên Bảo hiểm xã hội thành phố D; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 27/10/2020 và 20/11/2020), có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 28 tháng 9 năm 2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 16 tháng 11 năm 2020 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Đỗ Văn C trình bày:

Ông Đỗ Văn C vào làm việc tại Công ty TNHH P (gọi tắt là Công ty P) từ tháng 11/2009. Công ty P với ông C có ký kết các hợp đồng lao động, tuy nhiên ông chỉ còn giữ một bản hợp đồng đã cung cấp cho Tòa án, còn các hợp đồng khác ông không còn giữ cho nên không thể cung cấp cho Tòa án. Đến tháng 7/2011 Công ty P mới bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội cho ông. Địa điểm làm việc ở Chi nhánh Công ty P tại số 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B.

Từ đầu tháng 02/2018 Công ty P thông báo cho ông chuyển sang làm việc cho Công ty TNHH B (gọi tắt là Công ty P Bình Dương), tại địa chỉ: số 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phƣờng B, thành phố D, tỉnh B. Ông với Công ty P Bình Dương có ký kết các hợp đồng lao động, tuy nhiên Công ty P Bình Dƣơng đã không giao lại cho ông nên không thể cung cấp cho Tòa án. Ông C vẫn đƣợc Công ty P Bình Dương tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội.

Tháng 9/2019, ông chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty P Bình Dương, tuy nhiên cả Công ty P và Công ty P Bình Dương chưa đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông đầy đủ mặc dù hàng tháng các công ty vẫn trích từ tiền lương của ông để đóng bảo hiểm.

Do quyền lợi bị ảnh hưởng nên ông Đỗ Văn C khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH P có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 7/2011 đến tháng 01/2018, buộc Công ty TNHH B chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 02/2018 đến tháng 9/2019 và trả sổ bảo hiểm xã hội.

Do Công ty P đã đóng bảo hiểm xã hội cho ông C từ tháng 7/2011 đến hết tháng 5/2016 và Công ty P Bình Dương đã đóng bảo hiểm xã hội cho ông C tháng 02/2018 nên ông C có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu Công ty P có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông C từ tháng 7/2011 đến hết tháng 5/2016 và Công ty P Bình Dƣơng có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội tháng 02/2018.

Nhƣ vậy, ông C chỉ yêu cầu Công ty TNHH P có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 6/2016 đến tháng 01/2018 và Công ty TNHH B chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 03/2018 đến tháng 9/2019 và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông.

- Đối với bị đơn Công ty TNHH P và Công ty TNHH B:

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt cho các bị đơn thông báo thụ lý vụ án, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, yêu cầu tham gia phiên họp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhƣng các bị đơn không đến Tòa án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhƣ vậy, việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đƣợc xem xét trên cơ sở chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các chứng cứ do Tòa án thu thập đƣợc trong quá trình giải quyết vụ án.

- Tại bản tự khai ngày 20/11/2020 người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố D là anh Dương Văn T trình bày:

Công ty P bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại BHXH thị xã D (nay là thành phố D) từ tháng 03/2011, tính đến tháng 9/2020 Công ty P còn nợ số tiền 4.181.479.752 đồng, đã nộp tiền bảo hiểm xã hội đến hết tháng 5/2016. Công ty P tham gia bảo hiểm xã hội cho ông C từ tháng 7/2011 đến tháng 01/2018. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông C, đề nghị Công ty P có trách nhiệm đóng tiền và chốt sổ cho ông C từ tháng 06/2016 đến tháng 01/2018.

Công ty P Bình Dương bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại BHXH thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) từ tháng 02/2018, tính đến tháng 9/2020 Công ty P Bình Dƣơng còn nợ số tiền 3.421.267.453 đồng, đã nộp tiền bảo hiểm xã hội tháng 02/2018. Công ty P Bình Dƣơng tham gia bảo hiểm xã hội cho ông C từ tháng 02/2018 đến tháng 9/2019. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông C, đề nghị Công ty P Bình Dƣơng có trách nhiệm đóng tiền và chốt sổ cho ông C từ tháng 03/2018 đến tháng 9/2019 và trả sổ BHXH cho ông C theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trƣớc thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, các bị đơn đƣợc Tòa án triệu tập hợp lệ nhƣng vắng mặt nên căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng quy định.

Về nội dung vụ án: Nguyên đơn ông C có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu Công ty P có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông C từ tháng 7/2011 đến hết tháng 5/2016 và Công ty P Bình Dƣơng có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông C tháng 02/2018. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút. Căn cứ vào tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập và các đƣơng sự cung cấp đã đƣợc thẩm tra tại phiên tòa, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Tòa án nhận định:

1 Về thủ tục tố tụng:

Căn cứ vào quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị đơn, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tòa án xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp lao động, cụ thể là “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội”. Bị đơn Công ty TNHH B có trụ sở tại 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phƣờng B, thành phố D, tỉnh B; đối với bị đơn Công ty TNHH P thì nguyên đơn lựa chọn Tòa án giải quyết nơi tổ chức có chi nhánh, đồng thời nơi nguyên đơn làm việc tại số 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phƣờng B, thành phố D, tỉnh B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An theo điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm b, đ khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Các bị đơn Công ty TNHH P và Công ty TNHH B đã đƣợc Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa mà vẫn vắng mặt không có lý do; nguyên đơn và ngƣời đại diện theo ủy quyền của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội D có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Nguyên đơn ông Đỗ Văn C có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần yêu cầu Công ty P có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông C từ tháng 7/2011 đến hết tháng 5/2016 và Công ty P Bình Dƣơng có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội tháng 02/2018. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện nên căn cứ các Điều 235, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện đã rút.

[3] Xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp thì có cơ sở xác định giữa nguyên đơn với bị đơn có quan hệ lao động với nhau. Quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị đơn trên tinh thần tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên có giá trị và hiệu lực thi hành. Quá trình làm việc nguyên đơn đƣợc bị đơn tham gia bảo hiểm xã hội và hàng tháng bị đơn vẫn trích tiền lƣơng của nguyên đơn để tham gia bảo hiểm xã hội.

Hết tháng 01/2018, ông C chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty P và đến tháng 9/2019, ông C chấm dứt hợp đồng với Công ty P Bình Dƣơng. Việc chấm đứt hợp đồng lao động là tự nguyện, tuy nhiên, Công ty P và Công ty P Bình Dương không hoàn tất thủ tục để chốt sổ bảo hiểm xã hội và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông C làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông.

Việc đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 19 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội. Theo lời trình bày của ngƣời đại diện hợp pháp của Bảo hiểm xã hội D xác nhận Công ty P có tham gia bảo hiểm xã hội cho ông C từ tháng 7/2011 đến tháng 01/2018 (đã nộp tiền bảo hiểm xã hội cho đến hết tháng 5/2016); Công ty P Bình Dƣơng có tham gia bảo hiểm xã hội cho ông C từ tháng 02/2018 đến tháng 9/2019 (đã nộp tiền bảo hiểm xã hội tháng 02/2018), thời gian còn lại bị đơn đang nợ tiền bảo hiểm xã hội nên chƣa thể chốt sổ bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Như vậy, việc các bị đơn đã trừ tiền lƣơng hàng tháng của nguyên đơn nhưng không trích nộp tiền bảo hiểm xã hội, không chốt sổ bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn là vi phạm đến quyền lợi, hợp pháp của nguyên đơn theo quy định tại khoản 5 Điều 21 và là hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014; khoản 2 và khoản 3 Điều 47 Bộ Luật lao động nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

[4] Từ những phân tích trên có đủ sơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ý kiến đề xuất giải quyết vụ án của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.

[5] Về án phí: Nguyên đơn ông Đỗ Văn C không phải chịu. Bị đơn Công ty P và Công ty P Bình Dương phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 144, 147, 228, 235, 238, 244, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012; căn cứ Điều 19 và Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên ông Đỗ Văn C về việc yêu cầu bị đơn Công ty P xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 7/2011 đến hết tháng 5/2016 và Công ty P Bình Dƣơng xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội tháng 02/2018.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đỗ Văn C đối với bị đơn Công ty P và bị đơn Công ty P Bình Dƣơng và về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội”:

2.1. Buộc Công ty P phải xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội của ông Đỗ Văn C từ tháng 6/2016 đến tháng 01/2018.

2.2. Buộc Công ty P Bình Dƣơng phải xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội của ông Đỗ Văn C từ tháng 3/2018 đến tháng 9/2019 và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông Đỗ Văn C.

3. Về án phí lao động sơ thẩm:

- Ông Đỗ Văn C không phải chịu.

- Công ty P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

- Công ty P Bình Dƣơng phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

4. Nguyên đơn, bị đơn và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt đƣợc quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp bản án, quyết định đƣợc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đƣợc thi hành án dân sự, ngƣời phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cƣỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

704
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 04/2021/LĐ-ST

Số hiệu:04/2021/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 29/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;