TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 03/2024/LĐ-ST NGÀY 18/06/2024 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI
Trong ngày 18 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử công khai vụ án lao động sơ thẩm thụ lý số: 08/2024/TLST-LĐ ngày 29/3/2024, về việc: “Tranh chấp về Bảo hiểm xã hội”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXX-LĐ ngày 03/6/2024, giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ch, sinh năm 1988, Địa chỉ: Khu 3, xã B, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
2. Bị đơn: Bảo hiểm xã hội tỉnh P Địa chỉ: Số 394, đường N, phường T, TP.Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
- Đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Quốc Th, chức vụ: Trưởng phòng Quản lý thu, sổ thẻ và ông Trần Anh Tuấn, chức vụ: Nhân viên phòng Quản lý thu, sổ thẻ; (Theo VB ủy quyền ngày 04/4/2024).
3. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Trần Thị T, sinh năm 1992, Địa chỉ: Khu 10, xã Cao Xá, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
3.2. Công ty TNHH A Việt Nam, (Đã tuyên bố phá sản) Địa chỉ: Khu công nghiệp Thụy Vân, TP.Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
(Các đương sự đều xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn và bản tự khai cũng như các lời khai tiếp theo tại Tòa án chị Lê Thị Ch trình bày như sau: Đầu năm 2010, do không am hiểu pháp luật nên chị Ch đã cho chị Trần Thị T, sinh năm 1992, địa chỉ tại khu 10, xã Cao Xá, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ mượn toàn bộ hồ sơ mang tên chị Lê Thị Ch để chị T xin vào làm công nhân tại Công ty TNHH A Việt Nam. Sau đó, chị T đã trúng tuyển và ký kết hợp đồng vào làm công nhân tại Công ty TNHH A Việt Nam từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2010. Trong thời gian này chị T được công ty đóng bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh P có mã số bảo hiểm là: 2510001312 mang tên Lê Thị Ch. Trong thời gian từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2010, chị T đang làm việc tại Công ty TNHH A Việt Nam thì chị Lê Thị Ch cũng đang làm việc tại Công ty TNHH Seshin Việt Nam và cũng được công ty đóng bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh P có mã số bảo hiểm là:
2508004066 mang tên Lê Thị Ch. Như vậy, chị Ch bị trùng thời gian làm việc tại hai công ty khác nhau và có hai sổ bảo hiểm xã hội trùng thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Để đảm bảo quyền lợi cho chị Ch theo quy định của pháp luật nên chị Ch khởi kiện đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng lao động mà chị Trần Thị T đã ký kết với Công ty TNHH A Việt Nam (Hợp đồng mang tên chị Lê Thị Ch) vô hiệu và thoái thu thời gian đóng trùng bảo hiểm xã hội từ tháng 02/2010 đến hết tháng 10/2010 (09 tháng) tại Công ty TNHH A Việt Nam, tại sổ bảo hiểm số 2510001312 mang tên Lê Thị Ch theo sự tính toán của Bảo hiểm xã hội tỉnh P và theo quy định của pháp luật. Vì lý do công việc nên chị Ch đề nghị Tòa án cho chị được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và vắng mặt tại phiên tòa.
* Ông Trần Anh Tuấn là người đại diện theo ủy quyền cho phía bị đơn là Bảo hiểm xã hội tỉnh P trình bày: Qua rà soát bảo hiểm xã hội trên hệ thống, cơ quan bảo hiểm phát hiện trường hợp chị Lê Thị Ch, sinh năm 1988, ở xã B, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ có hai số sổ bảo hiểm xã hội bị trùng thời gian đóng bảo hiểm từ tháng 02/2010 đến hết tháng 10/2012 (09 tháng):
Sổ số 1: 2510001312 được cấp tại Công ty TNHH A Việt Nam; Sổ số 2: 2508004066 được cấp tại Công ty TNHH Seshin Việt Nam.
Đầu năm 2010 chị Trần Thị T (người mượn hồ sơ) đi làm tại Công ty TNHH A Việt Nam và tham gia bảo hiểm xã hội theo mã số 2510001312. Thời điểm đó chị Lê Thị Ch đang làm việc và có tham gia bảo hiểm xã hội tại Công ty TNHH Seshin Việt Nam theo mã số 2508004066. Nay chị Lê Thị Ch trình bày là do thiếu hiểu biết nên đã cho chị T mượn hồ sơ để đi làm, cụ thể: Chị T là em của chị Ch đã lấy 01 bộ hồ sơ, sơ yếu lý lịch mang tên chị Lê Thị Ch để xin việc tại Công ty TNHH A Việt Nam. Trong thời gian chị T làm việc dưới tên chị Lê Thị Ch tại Công ty TNHH A Việt Nam thì chị Lê Thị Ch đang làm việc tại Công ty TNHH Seshin Việt Nam. Vì vậy, người ký hợp đồng lao động với công ty Công ty TNHH A Việt Nam và làm việc tại Công ty TNHH A Việt Nam là chị Trần Thị T. Đối với việc đóng bảo hiểm xã hội: Sau khi công ty và người lao động ký hợp đồng lao động, công ty sẽ gửi hồ sơ, danh sách người lao động đến cơ quan bảo hiểm xã hội để làm thủ tục đóng bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Điều này đã dẫn đến việc chị Lê Thị Ch có hai sổ bảo hiểm xã hội trùng thời gian đóng bảo hiểm xã hội tại hai nơi làm việc khác nhau. Quan điểm của Bảo hiểm xã hội tỉnh P về yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ch như sau: Để đảm bảo quyền lợi cho chị Ch đề nghị Toà án giải quyết như sau:
Đồng ý với đơn yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ch.
Đề nghị và yêu cầu cơ quan Bảo hiểm xã hội: Thoái thu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội của mã số bảo hiểm xã hội 2510001312, mang tên Lê Thị Ch từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2010 tại Công ty TNHH A Việt Nam, với tổng số tiền thoái thu (09 tháng) là: 2.096.640 đồng, (Hai triệu, không trăm chín mươi sáu nghìn sáu trăm bốn mươi đồng).
Vì lý do công việc nên đại diện theo ủy quyền cho Bảo hiểm xã hội tỉnh P xin được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và cũng xin được vắng mặt tại phiên tòa.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Trần Thị T trình bày: Vào tháng 01/2010 do không hiểu biết pháp luật nên chị T có mượn bộ hồ sơ mang tên chị Lê Thị Ch (chị T là chị Ch) để xin vào làm công nhân tại Công ty TNHH A Việt Nam. Khi vào làm việc thì Công ty TNHH A Việt Nam và chị T có ký hợp đồng lao động với công ty, nhưng hợp đồng mang tên chị Lê Thị Ch; Hợp đồng được ký kết vào tháng 01/2010, nhưng do thời gian đã lâu nên chị T đã làm mất hợp đồng lao động này. Chị T làm công nhân tại Công ty TNHH A Việt Nam từ tháng 02/2010 đến hết tháng 10/2010 (09 tháng), thì chị T nghỉ việc. Trong thời gian chị T làm việc tại Công ty TNHH A Việt Nam thì hàng tháng công ty có đóng bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh P cho chị T, có mã số sổ là: 2510001312 nhưng sổ bảo hiểm mang tên Lê Thị Ch. Đồng thời, trong thời gian chị T đang làm tại Công ty TNHH A Việt Nam dưới tên chị Lê Thị Ch, thì chị Lê Thị Ch lại đang làm việc tại Công ty TNHH Seshin Việt Nam và cũng được công ty đóng bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh P cho chị Ch. Như vậy, chị Lê Thị Ch trên thực tế có hai sổ bảo hiểm xã hội có trùng thời gian đóng bảo hiểm xã hộ tại hai công ty khác nhau. Nay phía chị Ch khởi kiện đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng lao động đã ký giữa Công ty TNHH A Việt Nam với chị T (Hợp đồng mang tên chị Lê Thị Ch) vô hiệu và thoái thu thời gian đóng trùng bảo hiểm của sổ bảo hiểm xã hội mã số 2510001312 từ tháng 02/2010 đến hết tháng 10/2010 (09 tháng), chị T hoàn toàn nhất trí và đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị T và chị Ch. Vì lý do công việc nên chị T đề nghị Tòa án cho chị được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và cũng xin được vắng mặt tại phiên tòa.
- Công ty TNHH A Việt Nam: Theo Quyết định tuyên bố phá sản số: 01/2019/QĐ-TBPS ngày 19/6/2019, của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ; thì kể từ ngày 19/6/2019, Công ty TNHH A Việt Nam đã bị Tòa án tuyên bố chấm dứt hoạt động của công ty; chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Như vậy, hiện nay Công ty TNHH A Việt Nam không còn nữa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự; Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhận định:
[1]. Về tố tụng: Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn thì đây là vụ án tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; Bị đơn là cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh P có địa chỉ tại thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; Căn cứ Điểm d khoản 1 Điều 32, Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ là đúng quy định pháp luật.
- Do các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án tiến hành xét xử vụ án là phù hợp pháp luật.
- Đây là vụ án mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ không tham gia phiên tòa, theo quy định tại Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án tuyên bố Hợp đồng lao động ký kết giữa Công ty TNHH A Việt Nam và chị Lê Thị Ch nhưng do chị Trần Thị T trực tiếp ký kết vào năm 2010 vô hiệu thấy rằng: Chị Trần Thị T sử dụng hồ sơ xin việc làm mang tên chị Lê Thị Ch để ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH A Việt Nam là có sự lừa dối do người lao động tham gia ký kết hợp đồng không đúng chủ thể, điều đó đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị Lê Thị Ch và dẫn đến vi phạm quy định của Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội. Cho nên, yêu cầu khởi kiện tuyên bố Hợp đồng lao động vô hiệu của chị Lê Thị Ch là hoàn toàn có căn cứ.
Xét yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án thoái thu thời gian đóng bảo hiểm xã hội thấy rằng: Thời gian Công ty TNHH A Việt Nam đóng bảo hiểm xã hội cho chị Trần Thị T (mượn tên chị Lê Thị Ch) tại số sổ bảo hiểm 2510001312 từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2010 (09 tháng), thì trong thời gian này chị Lê Thị Ch cũng đang làm việc tại Công ty TNHH Seshin Việt Nam nên đã dẫn đến đóng trùng hai sổ bảo hiểm xã hội đều mang tên chị Lê Thị Ch. Do Hợp đồng lao động ký kết giữa Công ty TNHH A Việt Nam và chị Lê Thị Ch (thực tế do chị Trần Thị T ký) vô hiệu nên phải giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu và cần yêu cầu Bảo hiểm xã hội tỉnh P thoái thu thời gian đóng trùng bảo hiểm từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2010 (09 tháng) của số sổ bảo hiểm 2510001312 mang tên chị Lê Thị Ch theo sự tính toán của Bảo hiểm xã hội tỉnh P với số tiền là: 2.096.640 đồng, (Hai triệu, không trăm chín mươi sáu nghìn sáu trăm bốn mươi đồng) trả lại cho người lao động thực tế chị Trần Thị T là phù hợp pháp luật.
Như vậy, yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ch là hoàn toàn phù hợp pháp luật và được chấp nhận toàn bộ.
[3]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm và cần trả lại cho chị Lê Thị Ch số tiền đã nộp tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật là phù hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm d khoản 1 Điều 32, Điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 30 Bộ luật Lao động năm 1994; Điều 50 Bộ luật Lao động năm 2012; Điều 15, Điểm b khoản 1 Điều 49, Điều 50, Điều 51 Bộ luật Lao động năm 2019; Điều 20 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006; Điều 23 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của chị Lê Thị Ch.
2. Tuyên bố Hợp đồng lao động ký kết giữa Công ty TNHH A Việt Nam với chị Lê Thị Ch năm 2010, (do chị Trần Thị T mượn hồ sơ) vô hiệu toàn bộ.
3. Yêu cầu cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh P thoái thu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội của sổ bảo hiểm xã hội có mã số 2510001312, mang tên Lê Thị Ch từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2010 (09 tháng), tại Công ty TNHH A Việt Nam, với tổng số tiền là: 2.096.640 đồng, (Hai triệu, không trăm chín mươi sáu nghìn sáu trăm bốn mươi đồng) để trả lại cho người lao động thực tế là chị Trần Thị T.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc Bảo hiểm xã hội tỉnh P phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho chị Lê Thị Ch số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0005936 ngày 26/3/2024, của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
5. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án (hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật).
6. Trong trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 03/2024/LĐ-ST
Số hiệu: | 03/2024/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 18/06/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về