TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 43/2021/DS-ST NGÀY 29/11/2021 VỀ YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TRẢ TIỀN
Trong ngày 29 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2021/TLST- DS ngày 16 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXXST-DS ngày 03/11/202 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Mai Hữu T, sinh năm 1952 và bà Phan Thị Xuân Đ, sinh năm: 1963; Cùng địa chỉ: Số 262 đường H, phường T, quận T thành phố Đ. Ông T và bà Đ có mặt
- Bị đơn: Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 1. Địa chỉ cũ: Số 59 đường K, quận T, thành phố Đ. Địa chỉ mới: Số 384/40 đường Đ tổ 6, phường T, quận T, thành phố Đ.
Đại diện theo pháp luật bà Trần Lê Thị Thanh T - Chức vụ giám đốc. Bà T ủy quyền cho bà Trần Thị D, sinh năm 1989 và/hoặc bà Nguyễn Thị Thanh Thanh T, sinh năm 1998 theo văn bản ủy quyền ngày 22/10/2021 - Bà T, bà D có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện và lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án cũng như tranh tụng tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ trình bày:
Nguyên trước đây vào ngày 21/10/2013 ông Phan Xuân L - Phó giám đốc Công ty TNHH Xây dựng phát triển đô thị 1có vay của vợ chồng chúng tôi số tiền 800.000.000 đồng, mục đích vay là để thi công công trình Bệnh viện Đa khoa huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng.
Sau khi công trình được hoàn thiện đưa vào hoạt động đến nay Công ty vẫn chưa thanh toán lại số tiền trên cho chúng tôi, đã nhiều lần chúng tôi có gửi thông báo đề nghị thanh toán lại số tiền trên cho chúng tôi nhưng công ty vẫn không có thiện chí trả nợ.
Nay để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chúng tôi, chúng tôi làm đơn khởi kiện và tại phiên tòa hôm nay đề nghị Tòa án giải quyết buộc Công ty TNHH Xây dựng phát triển đô thị 1 phải thanh toán dứt điểm một lần số tiền 800.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.
*Trong quá trình giải quyết vụ án đại diện bị đơn Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 1 không có bản khai cũng như không trình bày cụ thể khoản nợ. Nhưng tại phiên tòa hôm nay đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà Trần Thị D và bà Nguyễn Thị Thanh Thanh T cùng trình bày:
Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 1 xác nhận có nợ của ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ số tiền 800.000.000 đồng nhưng chưa có kế hoạch cụ thể để trả lại số tiền nên đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.
* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Thông báo, gửi các quyết định cho Viện kiểm sát và các đương sự đúng thời hạn, đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 51 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm này, nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 1 phải trả lại cho ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ số tiền 800.000.000 đồng (tám trăm triệu đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả việc hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ khởi kiện đối với bị đơn Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị về việc “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”. Bị đơn có địa chỉ cũ: Số 59 đường K, quận T, thành phố Đ. Địa chỉ mới: Số 384/40 đường Đ, tổ 6, phường T, quận T, thành phố Đ. Đại diện theo pháp luật bà Trần Lê Thị Thanh T - Chức vụ giám đốc. Như vậy, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói trên là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Đối với yêu cầu khởi kiện số tiền đã vay 800.000.000 đồng: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa đã thể hiện:
Căn cứ “Giấy vay tiền” ngày 21 tháng 10 năm 2013 về việc ông Phan Xuân L phó giám đốc Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 1 có vay của vợ chồng ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ số tiền 800.000.000 đồng là có căn cứ. Nhưng hiện nay ông Phan Xuân L đã chết nên không có lời khai. Vì vậy giấy vay tiền có ký tên và đóng dấu Công ty 1 của ông Phan Xuân L là căn cứ để giải quyết vụ án.
Xét ý kiến trình bày của đại diện bị đơn tại phiên tòa: Xác nhận Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 1 có nợ của ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ số tiền 800.000.000 đồng. Do đó HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ.
[4] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn phù hợp như nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí dân sự sơ thẩm bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 466 và Điều 469 của Bộ luật dân sự 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền” của nguyên đơn ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ đối với bị đơn Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 1.
Tuyên xử :
1. Buộc Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 1 phải trả cho ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ số tiền: 800.000.000 đồng (tám trăm triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí:
- Công ty TNHH xây dựng phát triển đô thị 135 phải chịu 36.000.000 đồng (ba mươi sáu triệu đồng).
- Hoàn lại ông Mai Hữu T và bà Phan Thị Xuân Đ số tiền 18.000.000 đồng mà ông T, bà Đ đã nộp theo tại biên lai thu số 0009064 ngày 16/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
3. Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự
Bản án về trách nhiệm dân sự số 43/2021/DS-ST
Số hiệu: | 43/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về