TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 55/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ, Toà án nhân dân huyện Đức Huệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Võ Ngọc Đ, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1985, tại Nghệ An; Nơi cư trú: Tổ 25, khu phố 6, phường L, thành phố B, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc B và bà Hồ Thị T; có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1985 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/5/2021 đến ngày 02/7/2021 cho gia đình bảo lĩnh tại ngoại. (Có mặt)
- Bị hại:
1. Ông Giang Quốc C - Sinh năm 1975 - Địa chỉ: 50/9 Võ Văn T, phường 2, thành phố T, tỉnh L. (đã chết)
Người đại diện hợp pháp của ông Giang Quốc C là bà Nguyễn Thị S - Sinh năm 1973 - Địa chỉ: Ấp 2, xã B, huyện Đ tỉnh L. (Có mặt)
2. Ông Phan Văn Tấn S1 - Sinh năm 1990 - Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện H, tỉnh L. (đã chết)
Người đại diện hợp pháp của ông Phan Văn Tấn S1 là bà Nguyễn Ngọc D - Sinh năm 1969 - Địa chỉ: Ấp X, xã T, huyện T, tỉnh T. (Vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án: Ông Võ Ngọc Q - Sinh năm 1980 - Địa chỉ: Tổ 25, khu phố 6, phường L, thành phố B, tỉnh Đ. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 50 phút ngày 16/5/2021, Võ Ngọc Đ, sinh năm 1985, trú tại tổ 25, khu phố 6, phường L, thành phố B, tỉnh Đ, điều khiển xe ô tô tải biển số: 60C-186.07, ngồi cùng xe với Đ có Võ Ngọc B (em ruột của Đ), sinh năm: 1999, cùng nơi cư trú với Đ và Tăng Thị Trà G, sinh năm: 2002, trú tại số 118P88, khu phố 5, phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Xe đang lưu thông trên đường tỉnh 839 hướng đi từ xã Bình Thành về thị trấn Đông Thành, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Khi đến đoạn đường thuộc ấp 3, xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, do mặt đường bên phải xấu, nên Đ điều khiển xe ô tô tải lấn sang phần đường bên trái thì Đ phát hiện phía trước có một xe mô tô biển số: 54Y7-7115 đang lưu thông hướng ngược lại ở lề phải của xe mô tô, ngồi trên xe mô tô lúc này có Giang Quốc C, sinh năm 1975, trú tại: số 50/9 Võ Văn Tần, phường 2, thành phố Tân An và Phan Văn Tấn S1, sinh năm 1990, trú tại: ấp Chánh Hội, xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa tỉnh Long An, khi đó xe mô tô cách đầu xe ô tô tải mà Đ đang điều khiển khoảng 10 mét, Đ không kịp phản ứng gì thì xảy ra va đụng giữa hai xe, Đ liền đánh lái cho xe ô tô di chuyển sang phải đồng thời phanh hãm, xe chạy về phía trước được một đoạn khoảng 4-5 mét thì dừng hẳn, lúc này Đ xuống xe đến vị trí hai nạn nhân thì nghe người đi đường nói có người chết, do hoảng sợ nên Đ để lại xe ô tô và em là Võ Ngọc B cùng Tăng Thị Trà G ở lại, còn Đ rời khỏi hiện trường. Đến 13 giờ 30 phút, ngày 17/5/2021, Đ đến Công an huyện Đức Huệ đầu thú. Hậu quả C tử vong tại chỗ, còn S1 tử vong trên đường đi cấp cứu.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 468/2021/KLGĐ ngày 18/5/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: Giang Quốc C tử vong do gãy trật đốt sống cổ C1-C2 gây suy hô hấp cấp. Nồng độ Ethanol (cồn) trong máu là 277,38mg/100ml xác định tại Bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số: HST 409/ĐC.2021 ngày 28/5/2021 của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 469/2021/KLGĐ ngày 18/5/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: Phan Văn Tấn S1 tử vong do bị đa chấn thương. Nồng độ Ethanol (cồn) trong máu là 346,35mg/100ml xác định tại Bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số: HST 410/ĐC.2021 ngày 28/5/2021 của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định như sau:
Nơi xảy ra tai nạn là đường tỉnh 839 thuộc địa phận ấp 3, xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, đoạn đường thẳng tầm nhìn không bị hạn chế, mật độ phương tiện lưu thông nhiều, mặt đường được rãi nhựa rộng 4m90, có vạch sơn không liền nét chia thành 02 phần đường riêng biệt, phần đường bên phải hướng đi thị trấn Đông Thành rộng 2m50, phần đường bên trái rộng 2m40.
Ghi nhận việc đánh số thứ tự theo số tự nhiên vị trí phương tiện, tang vật, nạn nhân, dấu vết:
1) Xe ô tô tải BKS: 60C-186.07 2) Vùng vật rơi 3) Nạn nhân 4) Vết cày 5) Xe mô tô BKS: 54Y7-7115 N) Vũng nước.
Xác định điểm mốc và lề chuẩn: Điểm mốc là trụ điện số 68A bên lề phải; Chọn mép đường bên phải hướng đi từ xã Mỹ Thạnh Đông về vòng xoay thị trấn Đông Thành làm mép lề chuẩn.
Ghi nhận và mô tả các dấu vết như sau: Tiến hành ghi nhận dấu vết theo phương pháp cuốn chiếu, theo hướng vòng xoay thị trấn Đông Thành đi xã Mỹ Thạnh Đông:
Số 1: Xe ô tô tải biển số: 60C-186.07 nằm song song với mép lề chuẩn, đầu xe hướng về thị rấn Đông Thành. Trục bánh trước phải cách điểm mốc là 4m05, cách mép lề chuẩn là 0m60. Trục bánh sau phải cách mép lề chuẩn là 0m50. Trục bánh sau trái cách tâm vùng vật rơi (số 2) là 8m60.
Số 2: Vùng vật rơi là mảnh sơn màu trắng, nhiều mảnh nhựa trong suốt bị vỡ có kích thước là 3m40 x 1m20. Tâm vùng vật rơi đo vào mép lề chuẩn là 3m60, cách chân nạn nhân (số 3) là 01m.
Số 3: Nạn nhân (nam) nằm nghiêng bên trái, đầu nạn nhân đo vào mép lề chuẩn là 3m80, chân phải đo đến mép lề chuẩn là 3m95, đầu nạn nhân cách đầu vết cày (số 4) là 1m40.
Số 4: Vết cày dài 0m70, đầu vết cày đo đến mép lề chuẩn là 3m50, cuối vết cày nằm dưới cuối ống giảm sốc trước bên phải xe mô tô biển số 54Y7 -7115.
Số 5: Xe mô tô biển số 54Y7-7115 ngã sang phải, đầu xe hướng về xã Mỹ Thạnh Đông lệch sang trái, trục bánh trước đo vào mép lề chuẩn là 3m30, trục bánh sau đo vào mép lề chuẩn là 4m10; Trục bánh trước cách đầu vũng nước (đánh dấu N trên sơ đồ) là 3m40.
Vũng nước (N): Kích thước 4m10 x 0m60 nằm dọc theo mép lề chuẩn, điểm đầu và điểm cuối nằm tại mép lề chuẩn, tại vị trí rộng nhất của vũng nước đo đến tâm đường là 2m20.
Kết quả khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông như sau:
Xe mô tô biển số: 54Y7-7115: Cong biến dạng niềng bánh trước hướng từ ngoài vào trong, từ trái sang phải làm cho bánh trước không hoạt động được; Vỡ nhựa chắn bùn bánh trước có kích thước 0m20 x 0m10, tâm cách trục trái bánh trước 0m40, cách vết xướt rạng nứt trên bửng chắn gió bên trái 0m25, cách mặt đất 0m60; Trên bửng chắn gió bên trái có vết xướt, nứt dính sơn màu trắng, kích thước 0m30 x 0m10, tâm cách mặt đất 0m65, cách vết vỡ vị trí đèn tín hiệu trái 0m40; Vị trí đèn tín hiệu bên trái có vết vỡ nhựa ốp đèn, kích thước 0m20 x 0m10, tâm cách mặt đất 0m98, cách đế gương chiếu hậu bên trái 0m10; Tại vị trí đế gương chiếu hậu trái có vết xướt dính sơn màu trắng, kích thước 0m08 x 0m03, tâm cách mặt đất 01m; Cong cần đạp thắng chân từ trước về sau, từ phải sang trái.
Xe ô tô tải biển số: 60C-186-07: Nhãn hiệu Mitsubishi, kích thước bao ngoài: dài 6m15, rộng 1m95, cao 2m90 có nhiều dấu vết; Rạng nứt gương chắn gió trước tại vị trí góc dưới bên trái có kích thước 0m20 x 0m20, tâm vết tại góc gương cách mặt đất 1m35, cách đế gương chiếu hậu trái 0m10; Vị trí đế gương chiếu hậu trái có vết rạng nứt ốp nhựa có kích thước 0m05 x 0m10, tâm cách mặt đất 1m28, cách tâm vết vỡ tại vị trí đèn tín hiệu trước bên trái là 0m50, gãy rời gương chiếu hậu trái; Vị trí đèn tín hiệu trước bên trái có vết va chạm làm bể đèn tín hiệu, thụng kim loại đầu xe hướng từ trước về sau, bong tróc sơn (màu trắng), vùng va chạm có kích thước 0m75 x 0m50, tại chá đèn tín hiệu trước bên trái có dính chất dịch màu đỏ (nghi là máu) kích thước 0m06 x 0m04; Tâm vết va chạm cách mặt đất 0m80, cách trục bánh trước bên trái 01m; Vị trí mặt ngoài mâm kim loại bánh trước trái có vết trượt dài 0m50, rộng 0m06, điểm đầu tại vết lõm mâm kim loại vị trí van lốp xe, đi qua trục bánh xe, điểm cuối tại vị trí số 7 .00-16. Vết trượt tại trục bánh trước trái cách mặt đất 0m38, cách vết trượt màu đen trên mặt trước đế kim loại thùng xe bên trái là 1m70; Mặt trước đế kim loại thùng xe bên trái có vết trượt màu đen kích thước 0m05 x 0m05, tâm cách mặt đất 0m40. Rời thanh kim loại dưới cùng bảo vệ thùng xe bên trái ra khỏi đế phía trước.
Vật chứng vụ án:
- 01 xe ô tô tải nhãn hiệu Mistsubishi, số loại Canter, màu sơn: trắng, số khung RLAFE73PE81000167, số máy: 4D34L98150, số chỗ ngồi: 03, biển số: 60C-186.07 do ông Võ Ngọc Q đứng tên sở hữu, Q mua xe vào đầu tháng 3 năm 2021, sau khi hoàn tất các thủ tục đăng ký, Q giao xe này cho em ruột là Võ Ngọc Đ để lái xe thuê cho Q kinh doanh vận tải hàng hóa, đến ngày 16/5/2021thì gây ra tai nạn giao thông. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của ông Võ Ngọc Q, không ảnh hưởng đến quá trình điều tra, xử lý vụ án, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đức Huệ trả lại cho chủ sở hữu, theo Quyết định xử lý vật chứng số: 22 ngày 22/6/2021 và biên bản trả lại vật chứng. Sau khi nhận lại xe ông Q không yêu cầu gì khác nên không đề cập.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại: Wave S, biển số: 54Y7-7115, số khung: HC09047Y-918634, số máy: HC09E-6742318. Nguồn gốc xe: vào khoảng năm 2010, bà Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1975, trú tại Ấp 2, xã Bình Hòa Hưng, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, mua lại xe này đã qua sử dụng của người khác, không làm thủ tục mua bán sang tên, bà Tuyết giữ giấy chứng nhận đăng ký xe sử dụng đến khoảng năm 2016 thì bán lại cho Giang Quốc C và vợ là Nguyễn Thị S , với giá 3.000.000 đồng, việc mua bán không làm giấy tờ, thủ tục sang tên, bà Tuyết giao lại giấy đăng ký xe mô tô biển số: 54Y7-7115 cho vợ chồng C-S để sử dụng. Xét thấy xe mô tô nói trên, trong thời gian sử dụng, không ai tranh tranh chấp hay khiếu nại gì. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đức Huệ ra Quyết định xử lý vật chứng số: 22 ngày 22/6/2021 và biên bản trả lại vật chứng trả lại cho bà S là phù hợp. Sau khi nhận lại xe bà S không yêu cầu gì khác nên không đề cập.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Võ Ngọc Đ cùng gia đình đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho hai gia đình nạn nhân là Giang Quốc C và Phan Văn Tấn S1, mỗi gia đình với số tiền là 170.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của hai gia đình bị hại có đơn bãi nại xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Đ. Bà Nguyễn Thị S và bà Nguyễn Ngọc D sau khi nhận tiền bồi thường xong, không yêu cầu gì khác nên không đề cập.
Cáo trạng số: 34/CT-VKS ngày 02 tháng 7 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ đã truy tố bị cáo Võ Ngọc Đ về tội “Vi phạm quy định về tham gia gia thông đường bộ”, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ vẫn giữ cáo trạng truy tố bị cáo Võ Ngọc Đ. Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất của hành vi và hậu quả xảy ra, đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” Căn cứ: điểm đ khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 32; 65 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Võ Ngọc Đ 03 năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 năm.
Về tang vật: Cơ quan điều tra đã xử lý xong nên không đề cập xem xét. Về trách nhiệm dân sự:
- Người đại diện hợp pháp của ông Giang Quốc C là bà Nguyễn Thị S tại phiên tòa trình bày: Bà đã nhận tiền bồi thường từ phía bị cáo Đ xong. Hôm nay, bà yêu cầu bị cáo Đ cấp dưỡng nuôi con chung một lần 20.000.000 đồng cho cháu Giang Quốc Đ1, sinh ngày 07/8/2008. Về trách nhiệm hình sự xin giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo.
Bị cáo Võ Ngọc Đ đồng ý cấp dưỡng theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị S.
- Người đại diện hợp pháp của ông Phan Văn Tấn S1 là bà Nguyễn Ngọc D vắng mặt tại phiên tòa, tring lời khai trình bày: Bà đã nhận tiền bồi thường từ phía bị cáo Điệnh xong ,không yêu cầu bồi thường tiếp theo. Về trách nhiệm hình sự, bà yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Ngọc Q tại phiên tòa và trong lời khai trình bày: Ông đã nhận lại xe ô tô tải xe ô tô tải nhãn hiệu Mistsubishi, số loại Canter, màu sơn: trắng, số khung RLAFE73PE81000167, số máy: 4D34L98150, số chỗ ngồi: 03, biển số: 60C-186.07, ông không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
Nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án: Bị cáo biết việc làm sai trái, ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ quan cảnh sát điều tra, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị các cáo đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hành vi tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên đều thực hiện đúng và hợp pháp. Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát thu thập là hợp pháp.
[2] Vào khoảng 20 giờ 50 phút, ngày 16/5/2021, Võ Ngọc Đ điều khiển xe ô tô tải biển số: 60C-186.07 lưu thông trên đường tỉnh 839 hướng đi từ xã Bình Thành về thị trấn Đông Thành, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Khi đến đoạn đường thuộc ấp 3, xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, Đ điều khiển xe ô tô lấn sang phần đường bên trái (0,9m) làm va đụng với xe mô tô biển số: 54Y7- 7115 đang lưu thông hướng ngược lại ở lề phải của xe mô tô. Hậu quả làm hai người trên xe mô tô tử vong. Sau khi gây tai nạn Võ Ngọc Đ đến Công an huyện Đức Huệ đầu thú. Hành vi của Võ Ngọc Đ vi phạm vào khoản 1 Điều 9 của Luật giao thông đường bộ, lỗi dẫn đến tai nạn là do bị cáo gây ra.
[3] Tại phiên toà, bị cáo Võ Ngọc Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp khách quan với lời khai người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 468/2021/KLGĐ ngày 18/5/2021, phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: Giang Quốc C tử vong do gãy trật đốt sống cổ C1-C2 gây suy hô hấp, nồng độ cồn trong máu là 277,38mg/100ml; bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 468/2021/KLGĐ ngày 18/5/2021, phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: Phan Văn Tấn S1 tử vong do đa chấn thương, nồng độ cồn trong máu là 346,35mg/100ml; biên bản khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông lúc 21 giờ 20 phút, ngày 16/5/2021, bản ảnh hiện trường, sơ đồ tai nạn giao thông do Công an huyện Đức Huệ lập, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó, có đủ bằng chứng khách quan để kết luận rằng bị cáo Võ Ngọc Đ đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm đ khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Như vậy, cáo trạng số số: 34/CT-VKS-ĐH ngày 02 tháng 7 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đức Huệ truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là có cơ sở, đúng theo quy định của pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo Võ Ngọc Đ là nguy hiểm cho xã hội, vì không những vi phạm vào khoản 1 điều 9 Luật giao thông đường bộ mà còn xâm phạm đến trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi vô ý cẩu thả do quá tự tin, bị cáo đã gây ra tai nạn giao thông hư hỏng nhẹ 01 xe ô tô và gây ra cái chết cho 02 người, hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm. Xét thấy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, bị hại xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho xã hội. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[5] Xét thấy, bị cáo Võ Ngọc Đ thật thà khai báo ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho phía bị hại xong, đại diện phía bị hại có đơn xin miển xử lý đối với bị cáo, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình, con còn nhỏ, khi sự việc xảy ra đến cơ quan đầu thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, do đó khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo Võ Ngọc Đ là có cơ sở theo quy định pháp luật.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Ngọc D không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét. Nếu sau nầy phát sinh yêu cầu bồi thường sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác.
Đại diện hợp pháp của bị hại bà Nguyễn Thị S tại phiên tòa yêu cầu bị cáo Võ Ngọc Đ cấp dưỡng nuôi con bị hại là Giang Quốc Đ1 một lần 20.000.000 đồng. Bị cáo Đ đồng ý theo yêu cầu của bà S. Đây là sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận để buộc bị cáo bồi thường.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan: Ông Võ Ngọc Q tại phiên tòa và trong lời khai: Ông không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại xe ô tô nên không xem xét. Nếu sau này phát sinh yêu cầu bồi thường sẽ tách ra giải quyết bằng một vụ án khác.
[8] Về tang vật: Cơ quan điều tra đã xử lý xong không có yêu cầu xem xét lại nên đề cập xem xét.
[9] Bị cáo Võ Ngọc Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Căn cứ: điểm đ khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 32, Điều 65, Điều 54 Bộ luật hình sự; các Điều 299, Điều 326 và Điều 327 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Võ Ngọc Đ 03 (ba) năm tù, cho huởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án ngày 28/9/2021.
Giao bị cáo Võ Ngọc Đ về Ủy ban nhân dân phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo dõi, giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án treo.
Trong thời gian thi hành án treo bị cáo Võ Ngọc Đ có 02 lần vi phạm nghĩa vụ của án treo thì chuyển hình phạt tù cho hưởng án treo sang hình phạt tù có thời hạn.
Trường hợp bị cáo Võ Ngọc Đ thay đổi nơi cư trú thì giải quyết theo Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 591 Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo Võ Ngọc Đ phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị S 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) tiền cấp dưỡng nuôi con.
Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của bà S cho đến khi thi hành xong số tiền bồi thường, hàng tháng bị cáo Đ còn phải chịu lãi suất của số tiền chậm thi hành theo Điều 468 Bộ luật dân sự.
Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Võ Ngọc Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.
Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (ngày 28/9/2021). Đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ số 55/2021/HS-ST
Số hiệu: | 55/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về