TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 120/2021/HS-PT NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 25/11/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 97/2021/TLHS-PT ngày 01 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Đại P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2021/HS-ST ngày 25/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Đại P, sinh năm: 1977 tại Quảng Bình; Nghề nghiệp: Lái xe; Nơi cư trú: Thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Quảng Bình; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Đại M (s) và bà Nguyễn Thị G (s); Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ năm; Có vợ là Nguyễn Thị Hồng N và có 02 con (con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2007).
Tiền sự: Không.
Tiền án: Ngày 28/7/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.
Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 18.4.2021, Nguyễn Đại P điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 50H-007.55 kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 50R-333.13 chạy trên đường S theo hướng thành phố Đà Nẵng đi thành phố Hà Nội để giao hàng. Khi đi đến khu vực ngã tư nơi giao nhau giữa đường S và đường tránh V đoạn thuộc thôn T, xã N, huyện V, thành phố Đà Nẵng thì P điều khiển cho xe chuyển hướng rẽ phải để vào đường tránh V. Do không chú ý quan sát, chuyển hướng không đảm bảo an toàn nên khi xe ô tô do P điều khiển chuyển hướng rẽ phải đã tông vào xe đạp điện do bà Nguyễn Thị Q điều khiển chạy cùng chiều phía trước gây ra tai nạn. Hậu quả của vụ tai nạn làm bà Nguyễn Thị Q chết tại chỗ.
Tại kết luận giám định pháp y về tử thi số: 45/TgT ngày 12/5/2021 của Trung tâm pháp y TP Đà Nẵng kết luận: Bà Nguyễn Thị Q tử vong là do đa chấn thương.
Nạn nhân ngừng thở, ngừng tim, tử vong tại hiện trường.
Kết quả khám nghiệm hiện trường sau khi tai nạn xảy ra thể hiện:
Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông là nơi giao nhau giữa đường S và đường tránh V là đoạn đường nhựa bằng phẳng. Đường S rộng 21 mét, có dải phân cách giữa phân chia hai chiều xe chạy riêng biệt, mỗi phần đường có ba làn đường. Tầm nhìn không bị che khuất.
Chọn cột tên đường nằm bên mép đường bên phải hướng thành phố Đà Nẵng đi tỉnh Quảng Nam làm điểm mốc. Chọn mép đường chuyển vào đường tránh V bên phải theo hướng thành phố Đà Nẵng đi tỉnh Quảng Nam làm mép đường chuẩn. Ghi nhận việc đánh số thứ tự theo số tự nhiên vị trí nạn nhân, phương tiện, tang vật, dấu vết:(1): Dấu vết cày xước; (2): Dấu vết phanh lốp xe; (3): Vị trí xe đạp điện; (4): Vị trí nạn nhân; (5): Vị trí xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 50H-007.55 kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 51R-333.13.
Xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 50H-007.55 kéo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 51R-333.13 đỗ trên mặt đường. Đầu xe chếch về hướng đi đường tránh V, đuôi xe chếch về hướng đi thành phố Đà Nẵng. Trục bánh lốp trước bên phải của đầu kéo cách mép chuẩn là 3,5m và cách điểm mốc là 0,1m, trục bánh lốp sau cùng bên phải của sơ mi rơ mooc là 01m. Xe đạp điện ngã sang phải trên mặt đường, đầu xe chếch vào hướng đi Cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, đuôi xe chếch vào điểm mốc. Trục bánh lốp trước của xe cách mép chuẩn là 1,45m, tâm trục bánh lốp sau cách mép chuẩn là 0,8m và cách trục bánh lốp sau cùng bên phải của rơ mooc là 8,70m. Chùm dấu vết cày xước nhựa đường không liên tục có chiều hướng Đà Nẵng đi hầm V có kích thước (2,5x0,6)m. Điểm đầu của chùm vết cày xước cách mép chuẩn 1,05m. Điểm cuối của vết kết thúc tại vị trí tiếp xúc bên phải của xe đạp điện với mặt đường.
Dấu vết phanh lốp xe không liên tục chiều hướng thành phố Đà Nẵng đi hầm V trên diện có kích thước (9 x 0,45)m. Điểm đầu vết cách mép chuẩn là 1,1m, điểm cuối vết kết thúc tại vị trí tiếp xúc giữa bánh lốp sau cùng bên phải của sơ mi rơ moóc và mặt đường. Nạn nhân nằm sấp trên mặt đường, đỉnh đầu cách mép chuẩn là 1,5m, vị trí giữa hai chân cách mép chuẩn 0,7m và cách tâm trục bánh lốp sau của xe đạp điện là 0,8m.
Kết quả khám dấu vết xe đạp điện thể hiện: Toàn bộ phần trước của xe bị cong móp, biến dạng, cổ xe bị gãy rời ra khỏi vị trí ban đầu. Hệ thống đèn trước bể vỡ, giỏ đèo hàng bị cong móp, biến dạng, bánh trước bị lệch ngang qua phải. Trên bề mặt bên trái cổ phụt có nhiều vết bào mòn kim loại và dính lại nhựa đường. Gác để chân bên trái bị gập xuống dưới, gác để chân bên phải bị gập lên trên. Khung xe bị cong móp và gập qua phải, tương ứng mặt ngoài bên trái có dính lại nhiều chất màu đen. Hệ thống bàn đạp, bình điện, xích xe bị cong móp biến dạng và bể vỡ. Mặt ngoài bên phải (gác ba sen) bảo vệ xích có vết rách vỡ kim loại bị bào mòn và bám dính lại nhựa đường. Bình điện bị rơi ra khỏi vị trí ban đầu. Chắn bùn sau bị lệch qua phải, tương ứng trên vị trí mặt ngoài bên trái cạnh tem có vết bào mòn sơn kích thước (02x12)cm, điểm cao cách đất 38cm, chân chống trước bị gập vào trong.
Kết quả khám dấu vết trên xe đầu kéo biển kiểm soát 50H-007.55, kéo theo sơ mi rơ moóc biển kiểm soát 51R-333.13 thể hiện: Mặt trước dưới bên phải cản trên có vết bể vỡ nhựa kích thước (23 x 12) cm. Điểm cao cách đất 42cm, tương ứng mặt dưới trong khung sắt của cảng trên có vết sạch bụi hình răng cưa (hình lốp xe) kích thước (23x9)cm. Mặt ngoài má lốp trước bên phải có vết bào mòn su kích thước (46x7) cm. Tâm vết cách số 2 của dòng chữ “SP320” là 5,5 cm. Đo ngược chiều kim đồng hồ có vết sạch bụi nham nhở kích thước (23x12) cm. Mặt ngoài má lốp ngoài thứ hai từ trước về sau bên phải có vết sạch bụi nham nhở kích thước trên diện (47x10)cm. Mặt ngoài má lốp ngoài của lốp trong thứ hai từ sau ra trước bên phải có bám dính chất màu đỏ đen theo dạng tia trên diện kích thước (40x17) cm. Mặt ngoài má lốp ngoài của lốp trong thứ hai từ sau ra trước bên phải có bám dính chất màu đỏ đen theo dạng tia trên diện (60x20)cm. Mặt ngoài má lốp ngoài của lốp ngoài thứ nhất từ sau ra trước bên phải có bám dính chất màu đỏ đen đã khô kích thước (30x20) cm. Mặt ngoài má lốp ngoài của lốp ngoài thứ nhất bám dính nhiều chất đỏ đen trên nền toàn bộ má lốp.
Bản án sơ thẩm số 43/2021/HS-ST ngày 25/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại P 18 (mười tám) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 4 tháng 10 năm 2021 bị cáo Nguyễn Đại P có đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, cha mẹ già bị bệnh, con còn nhỏ.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đại P theo đúng thủ tục tố tụng và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.
Về nội dung: Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2021/HS-ST ngày 25/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật. Sau khi xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355;
Điều 356 BLHS; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Bị cáo Nguyễn Đại P giữ nguyên kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Đại P đã khai nhận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 18.4.2021, tại khu vực ngã tư nơi giao nhau giữa đường S và đường tránh V đoạn thuộc thôn T, xã N, huyện V, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Đại P điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 50H-007.55 kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 51R- 333.13 lưu thông trên đường S theo hướng từ Đà Nẵng đi Hà Nội. Khi cho xe chuyển hướng rẽ phải để vào đường tránh V, do không chú ý quan sát, chuyển hướng không đảm bảo an toàn nên xe ôtô do P điều khiển đã va chạm vào xe đạp điện do bà Nguyễn Thị Q điều khiển chạy cùng chiều phía trước, gây ra tai nạn làm bà Q chết tại chỗ. Lỗi chính gây ra vụ tai nạn thuộc về bị cáo. Vì vậy, bản án hình sự sơ thẩm số 43/2021/HS-ST ngày 25/9/2021 của Tòa án nhân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử bị cáo về tội “Vi phạm qui định về tham gia giao thông đường bộ”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đại P, HĐXX thấy rằng:
Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, xâm phạm đến tính mạng của người khác, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Do đó, đối với bị cáo cần xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, đồng thời áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp. Bị cáo còn có một tiền án về tội “đánh bạc” nhưng cấp sơ thẩm chưa áp dụng là có thiếu sót, cần rút kinh nghiệm. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ để c hấp nhận kháng cáo của bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của BLTTHS; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, thẩm.
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đại P; Giữ nguyên Bản án sơ 2.Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Đại P 01 (một) năm 06(sáu) tháng tù về tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
3.Về án phí: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Bị cáo Nguyễn Đại P phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
4.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ số 120/2021/HS-PT
Số hiệu: | 120/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về