TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 77/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 28 tháng 11 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2023, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn K; Sinh năm: 2001, tại Đồng Tháp.
Nơi thường trú: thôn S, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 6/12.
Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1975 và bà Nguyễn Thị Ngọc T1, sinh năm: 1977.
Vợ, con: chưa có Tiền án - tiền sự: không.
Nguyễn Văn K hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”.
* Bị hại : Ông Hoàng Đức V, sinh năm 1978 (đã chết); Nơi cư trú : thôn C, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận. Người đại diện hợp pháp của bị hại :
- Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1945; Địa chỉ : Thôn B, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận.
- Anh Hoàng Đức K1, sinh năm 2000; Địa chỉ : Thôn C, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận.
- Chị Hoàng Thị Ý, sinh năm 2002; Địa chỉ : Thôn C, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận. Người đại diện theo ủy quyền của bà D, chị Ý : Anh Hoàng Đức K1, sinh năm 2000; Địa chỉ : Thôn C, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn K có giấy phép lái xe hạng A1 số 6002X4090 do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 20 tháng 7 năm 2020.
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 29/4/2023, Nguyễn Văn K, điều khiển xe mô tô biển số 61E1-X từ nhà ngoại ở thôn S, xã T theo đường tắt ra đường Đ sau đó lưu thông theo hướng từ T ra ngã ba Căn cứ 6. Khoảng 19 giờ 00 cùng ngày đến đoạn Km 04+300 - ĐT 720 thuộc thôn D, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận - đây là đoạn đường cong cua về bên trái (theo hướng Kiệt đang lưu thông). Do không làm chủ được tốc độ, tay lái nên Nguyễn Văn K đã để xe do mình điều khiển lấn sang phần đường ngược chiều bên trái tông vào xe mô tô biển số 86B7-X do ông Hoàng Đức V, sinh năm 1978, trú tại thôn C, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận điều khiển theo hướng ngược chiều đến gây tai nạn giao thông làm ông Hoàng Đức V chết tại hiện trường, còn Nguyễn Văn K bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện C. Quá trình điều tra, Nguyễn Văn K thừa nhận hành vi phạm tội.
Tại biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông thể hiện :
Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường cong, mặt đường bê tông nhựa bằng phẳng rộng 11,8m. Ở giữa tim đường kẻ vạch sơn màu vàng liền nét chia mặt đường thành hai phần đường xe chạy riêng biệt, phần đường xe chạy bên phải theo hướng Căn cứ 6 đi T rộng 5,8m. Là đoạn đường có gắn biển báo “đường cong” theo hai hướng.
Chọn mép lề đường nhựa bên phải theo hướng Căn cứ 6 đi T làm mép lề đường chuẩn, chọn cọc H Km 04+300 – ĐT720 (nằm trên lề đất bên phải theo hướng Căn cứ 6 đi T) làm điểm chuẩn cố định lâu dài, hiện trường thể hiện như sau:
+ Đánh dấu số (1) trên hiện trường là xe mô tô biển số 61E1-12025 nằm trên phần đường xe chạy hướng T đi Căn cứ 6. Sau tai nạn, xe nằm ngã nghiêng bên phải, đầu xe hướng Căn cứ 6, đuôi xe hướng T. Đo từ tâm trục bánh trước của xe vào lề được 7,45m, đo từ tâm trục bánh sau của xe vào lề được 7,4m.
+ Đánh dấu số (2) trên hiện trường là vết máu kích thước: (70 x 25)cm nằm trên phần đường xe chạy hướng Căn cứ 6 đi T. Đo từ tâm vết vào lề được 6,6m, đo đến tâm trục bánh trước của xe mô tô biển số 61E1-X được 90cm.
+ Đánh dấu số (3) trên hiện trường là tử thi nằm ngửa trên phần đường xe chạy hướng Căn cứ 6 đi T, đầu quay về hướng Căn cứ 6, chân quay về hướng T. Từ đầu tử thi đo vào lề được 2,15m, đo đến tâm vết máu số (2) được 5,1m. Từ bàn chân phải tử thi đo vào lề được 1,05m.
+ Đánh dấu số (4) trên hiện trường là vết cày không liên tục kích thước: 2,13m x 20cm, nằm trên phần đường xe chạy hướng Căn cứ 6 đi T. Đo từ đầu vết vào lề được 2,66m, đo đến đầu tử thi được 1,7m. Đo từ cuối vết vào lề được 1,3m.
+ Đánh dấu số (5) trên hiện trường là vùng mảnh vỡ kích thước: 7,1m x 3,3m, nằm rải rác trên phần đường xe chạy hướng Căn cứ 6 đi T. Từ tâm vết đo vào lề được 03m, đo đến đầu vết cày số (4) được 3,2m.
+ Đánh dấu số (6) trên hiện trường là xe mô tô biển số 86B7-X, sau tai nạn nằm ngã nghiêng bên trái, đầu xe hướng Căn cứ 6, đuôi xe hướng T. Đo từ tâm trục bánh trước của xe vào lề được 50cm. Đo từ tâm trục bánh sau của xe vào lề được 1,7m, đo đến tâm vết số (5) được 1,9m.
Từ tâm trục bánh trước xe mô tô biển số 61E1-X đo đến điểm cố định được 10,9m.
Tại biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, thì tình trạng xe mô tô biển số 61E1-12025 sau tai nạn thể hiện:
+ Mặt nạ trước đầu xe phần bên trái vỡ kích thước: (25 x 34)cm;
+ Phuộc trước bên phải và bên trái cong vênh, biến dạng đẩy toàn bộ cổ xe lệnh từ trước ra sau 20cm, đẩy lệch từ trái sang phải kẹt cứng;
+ Bánh trước xẹp hơi, niền bánh trước móp méo biến dạng kích thước: (30 06)cm đẩy hướng từ ngoài vào trong 08cm;
+ Bửng chắn gió bên trái vỡ toàn bộ rời khỏi xe; Và một số hư hỏng khác thể hiện trong biên bản.
Tại biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, thì tình trạng của xe mô tô biển sốt 86B7-X sau tai nạn thể hiện :
+ Dè chắn bùn bánh trước bên trái tét rách nhiều nơi kích thước: (34 x 20)cm, đẩy lệch từ trái sang phải 03cm, có bám dính chất màu đỏ và đen;
+ Phuộc trước bên trái cong phần ti trên đẩy toàn bộ bánh xe lùi về sau 06cm;
+ Niền, mâm, căm bánh trước phần bên trái móp méo, tét rách kích thước: (28 x 04)cm, đẩy hướng từ ngoài vào trong 04cm;
Và một số hư hỏng khác thể hiện trong biên bản.
Tại Bản kết luận giám định số 621/KL-KTHS ngày 15/6/2023 của Phòng K2 - Công an tỉnh B, kết luận :
Tại thời điểm xảy ra tai nạn giao thông trên đường ĐT720:
1. Xe ô tô biển số 61E1-X có các dấu vết va chạm: cong kim loại vành bánh xe trước chiều hướng từ ngoài vào tâm trục bánh xe, cong kim loại giảm xóc trước bên trái, trượt xước mất kim loại mặt trước đầu ốc cố định bánh xe trước bên trái, chiều hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải; vỡ nhựa màu đỏ, rơi khỏi xe yếm chắn gió trước bên trái, cong kim loại cần đạp số trước bên trái chiều hướng từ trước ra sau từ trái qua phải phù hợp với các dấu vết va chạm trên xe mô tô biển số 86B7-X: cong, rách kim loại vành bánh xe trước bên trái chiều hướng từ ngoài vào tâm trục bánh xe, trượt sơn bám dính chất màu đen mặt ngoài giảm xóc trước bên trái, chiều hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải; rách nhựa chắn bùn trước bên trái, trên bề mặt có bám dính chất màu đỏ, vỡ nhựa rơi khỏi xe toàn bộ yếm chắn gió trước bên trái, chiều hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải;
Xe mô tô biển số 61E1-X di chuyển trên đường theo hướng T đi Căn cứ 6; xe mô tô biển số 86B7-X di chuyển theo hướng ngược lại, phía bên trái xe mô tô 61E1- X;
Xe mô tô biển số 61E1-X có chiều hướng va chạm từ trước ra sau, từ trái qua phải; xe mô tô biển số 86B7-X có chiều hướng va chạm từ trước ra sau, từ trái qua phải;
2. Xe mô tô biển số 61E1-X va chạm với xe mô tô biển số 86B7-X tại phần đường bên phải theo hướng Căn cứ 6 đi T. Tại Bản kết luận giám định tử thi số 509/KLGĐTT-KTHS ngày 25/5/2023 của Phòng K2 - Công an tỉnh B, kết luận nguyên nhân tử vong của Hoàng Đức V : 1. Các kết quả chính:
- Chấn thương sọ não; khối sưng nề vùng thái dương đỉnh trái; tổ chức dưới da bầm dập tụ máu lan tỏa; nứt xương sọ thái dương đỉnh trái; xuất huyết não;
- Gãy kín cung xương gò má trái;
- Gãy hở cung xương hàm dưới bên trái;
- Gãy kín đốt sống cổ C4-C5;
- Gãy kín 1/3 giữa xương đòn trái;
- Bầm tím, rách da một số vị trí trên cơ thể.
2. Kết luận:
+ Nguyên nhân chết: Shock chấn thương nặng không hồi phục do chấn thương sọ não.
+ Kết luận khác: Nồng độ cồn trong máu: 125,35 mg/100ml.
Về dân sự : sau tai nạn Nguyễn Văn K đã bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), bồi thường chi phí sửa xe mô tô 86B7-X số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), đại diện theo ủy quyền cho bị hại là anh Hoàng Đức K1 đã nhận đủ số tiền trên, có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Văn K và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Về vật chứng của vụ án:
+ Xe mô tô biển số 61E1-X đã trả lại cho chủ sở hữu là Nguyễn Văn K, xe mô tô biển số 86B7-X đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Hoàng Đức P theo Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 59 ngày 14/6/2023 của Cơ quan CSĐT Công an huyện H. + Đối với giấy phép lái xe hạng A1 số 6002X4090 mang tên Nguyễn Văn K (bản chính) và 01 đĩa DVD chứa đoạn clip thu giữ từ camera phía trước nhà ông Lê Minh S đã được đưa vào hồ sơ vụ án.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Tại bản cáo trạng số: 74/CT-VKS ngày 31/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo Nguyễn Văn K, về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng: điểm a, khoản 1 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Về xử lý vật chứng : Đối với giấy phép lái xe hạng A1 số 6002X4090 do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 20 tháng 7 năm 2020 cần trả lại cho Nguyễn Văn K. - Ý kiến của bị cáo Nguyễn Văn K : Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.
- Bị cáo Nguyễn Văn K nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện tiếp tục lao động nuôi dưỡng gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa, đại diện bị hại anh Hoàng Đức K1 có đơn xin xét xử vắng mặt. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo có mặt tại phiên tòa là đề nghị Hội đồng xét x ử tiến hành xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt đại diện bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về nội dung vụ án: Xét, lời khai của bị cáo Nguyễn Văn K tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, Kết luận giám định về thời điểm xảy ra tai nạn của Phòng K2 Công an tỉnh B và Kết luận giám định pháp y về thương tích của Phòng K2, Công an tỉnh B; đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở và căn cứ pháp lý để kết luận:
Khoảng 19 giờ ngày 29/4/2023, Nguyễn Văn K điều khiển xe mô tô biển số 61E1- X lưu thông trên đường ĐT720 hướng T đi ngã ba Căn cứ 6, khi đến đoạn Km 04+300 thuộc thôn D, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Do điều khiển xe đi không đúng phần đường quy định, lấn sang phần đường bên trái dành cho xe lưu thông ngược chiều nên Nguyễn Văn K đã để xe do mình điều khiển tông vào xe mô tô biển số 86B7-X do ông Hoàng Đức V điều khiển lưu thông từ hướng ngược chiều đến gây tai nạn giao thông, làm ông V tử vong.
Hành vi vi phạm của bị cáo Nguyễn Văn K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn K về tội danh, điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính mạng của người khác, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân khi tham gia giao thông, do đó cần phải xử lý nghiêm để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tích cực bồi thường khắc phục hậu quả, được bị hại có đơn bãi nại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo K. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy không cần bắt bị cáo cách ly ra khởi đời sống xã hội, mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử cho bị cáo được hưởng án treo và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục cũng đủ để giúp cho bị cáo trở thành một công dân tốt có ích cho gia đình và cho xã hội.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với giấy phép lái xe hạng A1 số 6002X4090 do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 20 tháng 7 năm 2020 cần trả lại cho Nguyễn Văn K.
[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
*Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260, Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn K cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
[2]. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trả lại 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 6002X4090 do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 20 tháng 7 năm 2020 cho Nguyễn Văn K sau khi bản án có hiệu lực thi hành.
[3]. Về án phí: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Nguyễn Văn K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4]. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 77/2023/HS-ST về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 77/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về