Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 73/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 73/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2020/HSST ngày 11/3/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn Đ, sinh năm 1979; tại: Hải Dương; nơi cư trú: Ấp 4, xã AV, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Th, sinh năm 1956 và bà Đào Thị Đ1, sinh năm 1958; có vợ tên Nguyễn Thị Đ2, sinh năm 1980 và có 02 con (con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại (Có mặt).

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1985 (Đã chết).

Địa chỉ: ấp BC, xã PT, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Người đại diện theo pháp luật của bị hại:

+ Ông Đỗ Lê H (Chồng bị hại).

Địa chỉ: Số 2, ngõ 3, Yên Bình, tổ dân phố B, phường PL, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội (Ông Hải ủy quyền cho bà H).

+ Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1964 (Mẹ bị hại).

Địa chỉ: Ấp 1, xã HP, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai (Có mặt)

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1993.

Địa chỉ: ấp 2, xã AV, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

2/ Bà Nguyễn Thị Đ2, sinh năm 1980.

Địa chỉ: ấp 4, xã AV, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Có mặt).

3/ Công ty C. Địa chỉ: khu C2, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo pháp luật: Ông M – Tổng giám đốc.

Địa chỉ: số 56B, khu phố B, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

- Người làm chứng:

1/ Ông Đặng Văn H2 (Có mặt).

2/ Ông Nguyễn Văn B (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 08/10/2019, Phạm Văn Đ (có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe ô tô biển số 60A-X lưu thông trên đường ĐT 777 theo hướng huyện Long Thành đi xã AV, huyện T. Khi đi đến km 11 đường ĐT 777 thuộc ấp 4, xã AV, huyện T thì Đ bật đèn tín hiệu báo hiệu chuyển hướng từ phải sang trái theo hướng đang lưu thông để đi vào đường hẻm phía bên trái, đồng thời quan sát phía trước phát hiện xe mô tô biển số 60B8- X do anh Nguyễn Văn B điều khiển chở chị Trần Thị S đang lưu thông đúng phần đường theo hướng ngược lại đi đến. Khi xe mô tô biển số 60B8-X do anh Bình điều khiển còn cách đầu xe ô tô biển số 60A-X khoảng 05 mét thì Đ điều khiển xe ô tô biển số 60A-X đột ngột chuyển hướng sang bên trái đường.

Lúc này anh B đạp phanh để tránh né nhưng do bất ngờ và do khoảng cách giữa 02 xe quá gần nên không kiểm soát được tay lái làm cho xe mô tô biển số 60B8- X mất thăng bằng loạng choạng lao sang phần đường phía bên trái va chạm vào bên trái đầu xe ô tô biển số 60LD-X do anh Đặng Văn H2 điều khiển đang lưu thông đúng phần đường theo hướng ngược lại, người chị Sen va đập vào đầu xe ô tô biển số 60LD-X rồi ngã xuống đường bị thương nặng, anh B và xe mô tô biển số 60B8-X cũng ngã xuống đường, anh B bị thương nhẹ. Khi chuyển hướng nhanh sang đường, Đ không kiểm soát được tay lái nên bên trái xe ô tô biển số 60A-X do Đ điều khiển va chạm vào cột biển báo giao thông cắm ở góc bên trái đầu đường hẻm làm cho xe bị hư hỏng nhẹ. Chị S được người dân và anh B đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa khu vực Long Thành, huyện Long Thành nhưng chị S đã tử vong trên đường đi cấp cứu, xe mô tô biển số 60B8- X và xe ô tô biển số 60LD-X bị hư hỏng nhẹ.

Sau khi tai nạn giao thông xảy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành khám nghiệm hiện trường và xác định được các dấu vết sau:

Hiện trường vụ tai nạn xảy ra tại km 11 đường ĐT 777 thuộc ấp 4, xã AV, huyện T, khám nghiệm hiện trường trong điều kiện trời nắng, nạn nhân được đưa đi cấp cứu, vị trí các dấu vết, các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn còn giữ nguyên. Đoạn đường thẳng, mặt đường trải nhựa, giữa tim đường có vạch sơn đứt quãng phân chia mặt đường thành hai chiều xe chạy, mỗi chiều đường rộng 3,5m.

Vị trí xe ô tô biển số 60LD-X dừng trên mặt đường, đầu hướng về thị trấn T, đo từ đầu trục trước bánh xe bên trái đến mép đường chuẩn là 4,2m; đo từ đầu trục sau đến mép đường chuẩn là 4,2m.

Mảnh sơn xe ô tô biển số 60LD-X nằm trước đầu xe, đo đến đầu trục trước bên trái bánh xe là 0,7m và đo đến mép đường chuẩn là 4,2m.

Vị trí xe mô tô 60B8-46544 nằm ngã nghiêng bên trái trên mặt đường, đầu xe hướng về Long Thành, đo từ trục trước đến đầu trục sau bên trái bánh xe ô tô biển số 60LD-Xlà 1m và đo đến mép đường chuẩn là 3,1m. đo từ trục sau đến mép đường chuẩn là 3,3m.

Vết cày xe mô tô dài 1,8m, hướng về thị trấn T, đo từ đầu vết cày đến mép đường chuẩn là 3,3m và đo đến đầu trục trước bên trái bánh xe ô tô biển số 60LD-X là 01m.

Vị trí xe ô tô biển số 60A-X dừng trên mặt đường hẻm cụt đầu xe hướng về ngõ cụt, đo từ đầu trục sau của hai bánh xe sau đến mép đường chuẩn là 8,2m;

đo từ đầu trục sau bên trái đến đầu trục trước bên trái bánh xe ô tô biển số 60LD- X là 12m.

Trụ điện đường số 346 đo đến đầu trục sau bên phải bánh xe ô tô biển số 60LD-X là 13m.

Cột biển báo giao thông số W207c nằm bên lề chuẩn.

Quá trình khám nghiệm hiện trường đã tạm giữ: 01 giấy phép lái xe hạng B2 số 2701450X38 của Đồng; 01 Giấy phép lái xe hạng C số 79018X5008 của anh H2; 01 Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của xe ô tô biển số 60A-X; 01 Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của xe ô tô biển số 60LD-X; 01 đăng ký xe ô tô biển số 60LD- X; 01 đăng ký xe ô tô biển số 60A-X đồng thời thu giữ 02 thẻ nhớ (hiệu Sandisk và VietMap) lưu giữ file video clip diễn biến của vụ tai nạn giao thông trích xuất từ camera giám sát hành trình của xe ô tô biển số 60LD-X và xe ô tô biển số 60A-X.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai khám nghiệm tử thi, giám định dấu vết va chạm giữa các phương tiện trong vụ tai nạn giao thông. Kết quả giám định pháp y về tử thi số 1378/PC09 ngày 30/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận nguyên nhân tử vong của chị Trần Thị S là:

“- Dấu hiệu chính: Xây sát bầm tím da vùng sườn – lưng – hông; xây sát bầm tím da vùng chân. Trong khoang lồng ngực hai bên có máu, dập và tụ máu màng phổi, rách rốn phổi, khí – phế quản và động – tĩnh mạch phế quản, vỡ lách, tụ máu quanh thận trái.

- Nguyên nhân tử vong: Suy hô hấp tuần hoàn do chấn thương ngực – bụng, kín dập rách rốn phổi, rách khí – phế quản và động mạch - tĩnh mạch phế quản, vỡ lách” (bút lục số 24-26) Ngày 28/10/2019 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận giám định dấu vết va chạm giữa các phương tiện trong vụ tai nạn giao thông như sau:

“- Cụm dấu vết nứt vỡ đèn báo tin hiệu chuyển hướng phía trước bên phải;

trượt xước, mài mòn yếm chắn gió bên trái của xe mô tô biển số 60B8-X hình thành do quá trình va chạm với cụm chi tiết góc trái đầu xe của xe ô tô biển số 60LD-X.

- Cụm dấu vết thụng trượt, mài mòn, dính sơn màu trắng và đỏ tại mặt ngoài cửa trước và sau bên trái của xe ô tô biển số 60A-X hình thành do quá trình va chạm với cột báo tín hiệu giao thông tại hiện trường.

- Hệ thống dấu vết nứt vỡ, trượt xước, mài mòn tại các chi tiết còn lại bên trái của xe mô tô biển số 60B8-X hình thành do quá trình va chạm với mặt đường khi xe ngã” (bút lục số 27-28).

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã đủ cơ sở xác định: Nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn giao thông đường bộ là do Phạm Văn Đ điều khiển xe ô tô biển số 60A-X chuyển hướng qua đường không đúng quy định, gây cản trở, không đảm bảo an toàn cho xe mô tô biển số 60B8-X do anh Nguyễn Văn B điều khiển chở chị Trần Thị S đang lưu thông đúng phần đường theo hướng ngược lại và dẫn đến hậu quả như đã nêu ở trên.

Ngày 10/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Văn Đ để điều tra theo quy định.

Trong quá trình điều tra, bị can Phạm Văn Đ đã thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, đồng thời đã bồi thường khắc phục hậu quả và được gia đình người bị hại chấp nhận và làm đơn bãi nại.

Đối với ông Nguyễn Văn B cũng có phần lỗi là điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định nhưng không phải là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không khởi tố xử lý đối với ông Bình vì vậy đã ra Quyết định xử phạt hành chính theo quy định tại Điểm a, khoản 5, Điều 21 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính Phủ.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B8-X, số máy: 5188166; số khung: 188378 là vật chứng của vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn Tú.

- Đối với xe ô tô hiệu Toyota biển số 60A-X, số máy: 252846, số khung: 5029258 là vật chứng của vụ án; Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 4105742, cấp ngày 21/12/2017; Đăng ký xe ô tô biển số 60A-X Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị Đ2.

- Đối với xe ô tô hiệu Ford biển số 60LD-X, số máy: 915360, số khung: 06136 là vật chứng của vụ án, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 0124457, cấp ngày 07/10/2019; Đăng ký xe ô tô biển số 60LD-X; Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại Công ty C.

Đối với Giấy phép lái xe hạng C số 79018X5008 do Sở Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh cấp ngày 15/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra quyết định xử lý trả lại cho ông Đặng Văn H2.

Đối với các vật chứng gồm: 02 thẻ nhớ (hiệu Sandisk và VietMap) lưu giữ file video clip diễn biến của vụ tai nạn giao thông trích xuất từ camera giám sát hành trình của xe ô tô biển số 60LD-37.01 chuyển theo hồ sơ vụ án.

Về phần dân sự: Trong quá trình điều tra, Phạm Văn Đ đã bồi thường cho gia đình chị Trần Thị S 65.000.00 đồng, anh Đặng Văn H2 đã tự nguyện hỗ trợ gia đình chị S 20.000.000 đồng. Hiện nay gia đình chị S đã cam kết không có yêu cầu gì khác về phần dân sự. Đồng thời anh B và anh T cũng tự nguyện cam kết không yêu cầu bồi thường, cam kết tự sửa chữa xe mô tô 60B8-X, đại diện theo pháp luật của Công ty C cũng tự nguyện cam kết không yêu cầu bồi thường.

Tại Cáo trạng số: 80/CT/VKS-HS ngày 10/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Phạm Văn Đ về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ với mức án từ 06 (Sáu) tháng đến 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 (Mười hai) tháng đến 16 (Mười sáu) tháng kể từ ngày tuyên án.

Tại phiên tòa, mẹ bị hại bà Nguyễn Thị H1 xác định bị cáo đã bồi thường cho gia đình 65.000.000 đồng và về hình phạt bà H1 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn trách nhiệm hình sự hoặc giảm nhẹ cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo;

người đại diện của bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người đại diện của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông (Bút lục số 08, 09), Bản kết luận giám định pháp y về tử thi (Bút lục số 26). Như vậy, xét đã có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 08/10/2020, Km11 đường ĐT 777 thuộc ấp 4, xã AV, huyện T, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Phạm Văn Đ (có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe ô tô biển số 60B8-465.65 chuyển hướng qua đường từ phải sang trái đột ngột, không đảm bảo an toàn cho xe mô tô biển số 60B8-X do ông Nguyễn Văn B điều khiển chở bà Trần Thị S đang lưu thông đúng phần đường theo hướng ngược lại dẫn đến không kịp né tránh, xe mất thăng bằng lao sang bên trái đường theo hướng đang lưu thông va chạm vào đầu xe ô tô biển số 60LD-X do ông Đặng Văn H điều khiển đang lưu thông đúng phần đường theo hướng ngược lại (đi phía sau ô tô biển số 60A-X) làm người bà S va đập vào xe ô tô biển số 60LĐ-X ngã xuống đường bị thương nặng dẫn đến tử vong. Do đó, có đủ yếu tố kết luận bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng cần xem xét đến việc bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại và được gia đình bị hại làm đơn bãi nại và xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; bị cáo có cha ruột là thương bệnh binh tham gia kháng chiến được Nhà nước tặng thưởng huân huy chương. Bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này luôn cháp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương; bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng và có khả năng tự cải tạo. Bị cáo có đủ điều kiện để hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt thể hiện sự nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]. Về vật chứng vụ án: Đối với 02 thẻ nhớ (hiệu Sandisk và VietMap) lưu giữ file video clip diễn biến vụ tai nạn giao thông trích xuất từ camera giám sát hành trình của xe ô tô biển số 60LD-X lưu hồ sơ vụ án.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Phạm Văn Đ đã bồi thường cho gia đình bà Trần Thị S 65.000.000 đồng, ông Đặng Văn H2 đã tự nguyện hỗ trợ gia đình bà S 20.000.000 đồng. Gia đình bà S không yêu cầu gì về dân sự. Đồng thời ông B, ông T cũng tự nguyện cam kết không yêu cầu bồi thường, cam kết tự sửa chữa xe mô tô biển số 60B8-X; Công ty C cam kết không yêu cầu bồi thường.

[7]. Đối với ông Nguyễn Anh T tuy biết ông B không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định nhưng do ông B không có lỗi gây ra tai nạn giao thông làm bà S tử vong nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không khởi tố xử lý đối với ông T mà ra Quyết định xử phạt hành chính theo quy định pháp luật.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (Một) năm kể từ ngày tuyên án (29/4/2020).

Giao bị cáo Phạm Văn Đ cho Ủy ban nhân dân xã AV, huyện T, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 và Điều 68 Luật Thi hành án hình sự Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã được hưởng án treo.

2. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bà H, bà Định có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 73/2020/HS-ST

Số hiệu:73/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;