TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TL - TỈNH HƯNG YÊN
BẢN ÁN 47/2024/HS-ST NGÀY 20/09/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TL, tỉnh Hưng Yên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2024/TLST- HS ngày 27 tháng 8 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Mạnh Q, sinh năm 2002 tại: xã Trung Dũng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; Nơi cư trú: thôn ĐL, xã TD, huyện TL, tỉnh Hưng Yên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch:Việt Nam; Con ông: Bùi Đình Q1, sinh năm 1980 và bà: Tòng Thị V, sinh năm 1983; Vợ, con: chưa có; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 07/5/2024, chuyển áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh từ ngày 09/7/2024; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Thị Th, sinh năm 1975 “Có mặt” Địa chỉ: Thôn NT, xã AV, huyện TL, tỉnh Hưng Yên.
* Người làm chứng:
- Anh Đồng Văn L, sinh năm 1987 “Vắng mặt” Địa chỉ: Đội x, xã TN, thành phố H, tỉnh Hưng Yên.
- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1984 “Vắng mặt” Địa chỉ: Thôn ĐĐ, xã MP, huyện TL, tỉnh Hưng Yên.
- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992 “Vắng mặt” Địa chỉ: Thôn NM, xã AV, huyện TL, tỉnh Hưng Yên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 10/3/2024, sau khi đã uống rượu, Bùi Mạnh Q (chưa có giấy phép lái xe) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Exicter dung tích 149 cm3, biển số 89B1-X chở anh Phạm Văn M, sinh năm 2002, ở thôn NT, xã AV, huyện TL, tỉnh Hưng Yên ngồi sau xe đi từ huyện H, tỉnh Thái Bình về đến Km 07 đường ĐH83 thuộc địa phận thôn ThL xã ThL có ngã ba giao nhau với đường ĐH82, là đoạn đường vòng, có địa hình quanh co, do không làm chủ được tốc độ dẫn đến xe của Q điều khiển bị đổ, trượt trên đường làm anh M ngồi sau xe ngã văng ra khỏi xe va vào kiêu gạch đá xi măng của gia đình anh Nguyễn Văn H (là người kinh doanh vật liệu xây dựng) để ở nền đất lề đường bên phải theo chiều đi từ quán Thu, xã ThL đi Ủy ban nhân dân xã TD. Hậu quả: Anh M tử vong tại chỗ và xe mô tô bị hư hỏng.
- Tại biên bản khám nghiệm hiện trường xác định:
Hiện trường còn nguyên vẹn không bị xáo trộn, có 01 người bị thương được gia đình đưa đi bệnh viện đa khoa Hưng Yên cấp cứu.
Tại hiện trường nơi xảy ra tai nạn thuộc đoạn đường ĐH83 km07 xã ThL giao nhau với đường ĐH 82, đoạn đường ĐH 83 nơi xảy ra tai nạn được chia làm 02 chiều đường, chiều từ ThL đi TD và chiều từ TD đi ThL, mặt đường rộng 7m60 được dải nhựa áp phan bằng phẳng, giao nhau với đường 82 rộng 6m60 được dải bằng nhựa áp phan.
Tại hiện trường khi cơ quan tiến hành khám nghiệm có để lại 7 dấu vết được đánh số thứ tự từ 1 đên 7. Vết trượt xước đứt đoạn được kí hiệu số 1 có kích thước (12mx24x0m01) có chiều từ ThL đi TD; Vết cà xước cầy đứt được kí hiệu số 2 có kích thước (19m35x0m50) có chiều từ ThL đi TD; vết cà xước đứt đoạn được kí hiệu số 3 có kích thước (1m20 x0m01) có chiều từ TL đi TD; Vùng máu loang và mô não được kí hiệu số 4 có kích thước (4m05x0m25) có chiều từ ThL đi TD, tử thi nam thanh niên cao 1,65m được kí hiệu số 5; Vùng máu loang được kí hiệu số 6 có kích thước (1.6x0.8)m; Xe mô tô 89B1-X kí hiệu số 7.
Vết số 1 cách mép đường phía bên phải 4,3 mét. Đầu vết cách km07 là 45,8 mét cách tim ngã 3 quán Thu là 17m, cách đầu vết số 2 là 6,45 mét. Cuối vết cách mép đường bên phải là 5.45 mét.
Vết số 2, đầu vết cách mép đường bên phải là 5 mét, cách dấu vết số 1 là 6.45 mét, cách đầu vết số 3 là 8.85 mét. Cuối vết cách mép đường bên phải là 7.2 mét.
Vết số 3, đầu vết cách mép đường phía bên phải là 6.1 mét, cách đầu vết số 2 là 8.85 mét, cách đầu vết số 4 là 2,7 mét. Cuối vết cách méo đường phía bên phải là 6.05 mét.
Vết số 4, đầu vết cách mép đường phía bên phải là 7.8 mét, cách đầu vết số 3 là 2.7 mét, cách đỉnh đầu tử thi là 4 mét, điểm cao nhất của vết cách mặt đất là 0,35 mét. Cuối vết cách mép đường phía bên phải là 7.8 mét.
Vết số 5, tử thi nằm ngửa đầu hướng mép đường phía bên phải chân tường mép đường bên trái, đỉnh đầu cách mép đường phía bên phải là 6 mét gót chân trái cách mép đường bên phải là 6.8 mét đỉnh đầu cách dấu vết 4 là 4 mét cách tâm số 6 là 0.8 mét.
Vết số 6, tâm vùng cách mép đường phía bên phải 6,6 mét, tâm vùng cách đỉnh đầu tử thi là 0,8 mét, cách trục sau xe máy 89B1-X là 5.01 mét.
Vết số 7, trục trước cách mép đường bên phải là 6.9 mét, trục sau cách mép đường là 8 mét, cách tâm 6 là 5.1 mét. Xe ở tư thế dựng chân chống phụ đầu xe hướng mép đường phía bên phải.
Mở rộng hiện trường có 11 kiêu gạch được để ở lề đường phía bên phải theo chiều từ TD đi TL có chiều dài 11.36 mét, rộng 1.04 mét, cao 1.1 mét (BL số: 38-39).
- Tại Biên bản khám nghiệm tử thi đối với anh Phạm Văn M xác định:
Các dấu vết tổn thương trên cơ thể:
Vùng đầu mặt: Vùng đỉnh trán thái dương gáy bên trái sát chân tóc trán sát đường thẳng giữa có đám rách toác da sâu kích thước (20x20)cm. Hai mắt nhắm, nhãn cầu hai bên không tổn thương. Ống tai ngoài hai bên chảy máu. Hai lỗ mũi chảy máu. Miệng ngậm, lưỡi nằm trong cung răng, hệ thống răng không tổn thương.
Vùng cổ không phát hiện tổn thương.
Vùng ngực bụng: Không phát hiện tổn thương, kiểm tra khung ngực hai bên bền vững.
Vùng lưng không phát hiện tổn thương: Kiểm tra khung chậu hai bên vững. Hai tay: Mu bàn tay phải và vùng trên đốt các ngón 1, 2, 3, 4 có đám sây sát rách da kích thước (15x12)cm. Mu bàn tay trái và vùng liên đốt ngón 2 có đám sây sát da sưng nề bám dính chất bẩn kích thước (10x5)cm. Kiểm tra hệ thống xương hai tay vững.
Hai chân mặt trong gối phải có đám sây sát da kích thước (5x4)cm. Mặt trong bàn chân phải có đám sây sát da kích thước (14x5)cm. Mặt ngoài đùi và phía sau mông bên trái cách chậu trái 7cm có đám sây sát da kích thước (20x15)cm. Mặt trước gối trái có đám sây sát da kích thước (20x15)cm. Mặt trước gối trái có đám sây sát da kích thước (5x3)cm. Kiểm tra hệ thống xương hai chân vững.
Mổ vết thương vùng trán đỉnh, gáy bên trái thấy tổ chức dưới da bầm tụ máu, xương hộp sọ bị vỡ kích thước (15x10)cm tổ chức não bên trong bật ra ngoài.
- Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 64/KL-KTHS(GĐPY) ngày 25/3/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên xác định nguyên nhân chết của anh Phạm Văn M, kết luận:
Anh Phạm Văn M, sinh năm 2002, HKTT: xã AV, huyện TL, tỉnh Hưng Yên khám nghiệm ngày 10/3/2024 tại xã TL, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên chết là do: Chấn thương sọ não vỡ xương hộp sọ. Thể loại chết: Không tự nhiên (BL số: 60-61).
- Tại biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông xác định:
Xe mô tô nhãn hiệu Exiter, dung tích 149 cm3 màu xám đen, gắn biển số 89B1-X có số khung là: 0610GY314303, số máy là: G3D4E330310 được dựng thẳng đứng bằng chân trống giữa, ở trên một mặt bằng phẳng:
Chiều dài xe 0,2 mét; chiều rộng xe là 0,72 mét; chiều cao của xe là 1,15 mét.
Tại mặt ngoài đầu núm tay phanh bên phải người điều khiển có để lại vết trượt xước mài mòn kim loại có kích thước là (0,03x0,02) mét. Có chiều từ trên xuống dưới, từ trước về sau.
Tay ga, điều khiển tốc độ phía bên phải người điều khiển bị chệch ra khỏi vị trí chốt hãm, điểm gần nhất cách chốt hãm là 0,05 mét Tay mặt ngoài đầu núm tay ga bên phải người điều khiển để lại vết trượt xước mài mòn kim loại có kích thước là (0.03x0.03)mét. Có chiều từ trước về sau, trên vết có để lại vết bụi bẩn màu nâu, dạng đất đá.
Ốp nhựa trang trí mặt đồng hồ có để lại vết trượt xước mài mòn kim loại có kích thước (0,25x0.03) mét có chiều từ trái sang phải Cách yếm bên phải của người điều khiển có để lại vùng trượt cước mài mòn có kích thước là (0.3x0.95) mét có chiều từ trước về sau, trên vết có để lại bụi bẩn dạng bùn đất Bàn dậm chân phanh sau bị đẩy cong từ dưới lên trên, tại cần dậm phanh để lại chất nâu xám và vụn đá gạch bê tông Bàn để chân phía bên phải người điều khiển có để lại chất màu nâu xám dạng bùn đất có kích thước (0.1x0.03) mét.
Tại mặt ngoài bàn để chân phía say có để lại vết trượt cước mài mòn có kích thước (0.04x0.04) mét có chiều từ trước về sau, trên vết có để lại chất nâu xám dạng bùn đất.
Ốp nhựa trang trí bảo vệ bô xe phía bên phải có để lại vùng trượt xước mài mòn kim loại có kích thước (0.5x0.1) mét. Có chiều từ trước về sau, trên vùng có để lại chất bột màu nâu xám dạng bùn đất.
Tại mặt ngoài tay xách xe phía sau bên phải người điều khiển có để lại vết trượt xước mài mòn kim loại có kích thước là (0.14x0.07) mét có chiều từ trước về sau, trên vết có để lại chất bột đá.
Mặt gương bên trái người điều khiển hướng về trước, tại mặt ngoài ốp nhựa bảo vệ gương có để lại vết trượt xước có kích thước là (0.15x0.01) mét có chiều từ trước về sau Tay lái phái bên phải người điều khiển bị đẩy cong từ trên xuống dưới.
- Tại phiếu kết quả xét nghiệm nồng độ cồn đối với Bùi Mạnh Q xác định: Nồng độ Ethanol trong máu là 28.04 mmol/L (Trị số bình thường < 1.76 mmol/L).
- Tại bản kết luận định giá số 26/KL-HĐĐGTS ngày 06/5/2024 của Hội đồng định giá sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Lữ xác định: Giá trị phần hư hỏng của xe ô tô biển kiểm soát 89B1-X, nhãn hiệu YAMAHA (Exciter) là 350.000 đồng, thời điểm định giá là 10/3/2024.
Ngày 11/3/2024, Cơ quan điều tra thu giữ 02 video ghi lại nội dung vụ án từ trung tâm điều hành đô thị thông minh ghi lại nội dung vụ án xác định người điều khiển xe mô tô là Bùi Mạnh Q và người ngồi sau là Phạm Văn M. Q chở M, cả người và xe đổ, trượt trên mặt đường về phía các kiêu gạch xếp bên lề đường.
- Tại Kết luận giám định số 90/KL-KTHS(KTS) ngày 15/4/2024 Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Không phát hiện thấy dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong 02 file video trong mẫu niêm phong kí hiệu K1 gửi giám định.
* Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu, xử lý vật chứng:
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 89B1-X mang tên chủ xe là Đồng Văn L, sinh năm 1987 ở thành phố H, tỉnh Hưng Yên. Quá trình điều tra xác định, anh L đã bán chiếc xe mô tô trên cho Phạm Văn M, M chưa làm thủ tục đăng kí lại. Do vậy, chiếc xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh M nhưng anh M đã tử vong nên ngày 03/4/2024 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lữ đã trả lại cho gia đình M.
Đối với 01 thẻ nhớ chứa 02 video ghi lại hình ảnh nội dung vụ án niêm phong kí hiệu M1 được chuyển kèm theo hồ sơ vụ án.
* Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo Bùi Mạnh Q đã tự nguyện bồi thường cho gia đình Phạm Văn M số tiền 75.000.000 đồng. Gia đình anh M đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu bồi thường, đề nghị gì về dân sự.
Đối với hư hỏng thiệt hại của xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 89B1-X của anh Phạm Văn M, do giá trị thiệt hại không lớn nên gia đình anh M không có yêu cầu, đề nghị gì.
Quá trình điều tra Bùi Mạnh Q thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản Cáo trạng số: 40/CT-VKSTL ngày 26/8/2024của Viện kiểm sát nhân dân huyện TL, tỉnh Hưng Yên truy tố Bùi Mạnh Q về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
* Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TL:
Giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Căn cứ điểm a, b khoản 2 điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Mạnh Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Mạnh Q từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù, được trừ 64 ngày đã bị tạm giam. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.
+ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
+ Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện TL; Viện kiểm sát và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện TL trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng: Biên bản khám nghiệm hiện trường hồi 16 giờ 00 phút ngày 10/3/2024; Biên bản khám nghiệm phương tiện xe mô tô nhãn hiệu Exciter, BKS 89B1 -X; Biên bản khám nghiệm tử thi Phạm Văn M; Bản kết luận giám định tử thi số: 64/KLGĐTT-PC09 ngày 25/3/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên; 02 file vi deo ghi lại hình ảnh nội dung vụ án gửi giám định; Bản kết luận định giá tài sản số: 26/KL- HĐĐGTS ngày 06/5/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Lữ; Lời khai của bị cáo; Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Lời khai của những người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Những tài liệu, chứng cứ này là phù hợp với nhau và đã được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa. Trên cơ sở đó có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 10/3/2024, Bùi Mạnh Q chưa có giấy phép lái xe, sử dụng rượu điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, có dung tích 149 cm3 biển số 89B1-X chở anh Phạm Văn M đi từ huyện H, tỉnh Thái Bình về đến Km 07 đường ĐH83 thuộc ngã ba quán Th, thôn ThL, xã ThL, huyện Tiên Lữ giao nhau với đường ĐH82 (đoạn đường vòng quanh co) không giảm tốc độ dẫn đến xe bị đổ trượt trên đường làm anh M ngã văng ra va vào kiêu gạch ven đường. Hậu quả: Anh M tử vong tại chỗ.
Bùi Mạnh Q điều khiển xe mô tô có dung tích 149cm3 khi tham gia giao thông không có giấy phép lái xe theo quy định, sử dụng rượu và gây hậu quả làm một người tử vong. Hành vi nêu trên của Bùi Mạnh Q đã đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, được quy định tại điểm a, b khoản 2 điều 260 Bộ luật hình sự.
Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện TL truy tố bị cáo về tội danh và áp dụng điều luật như Cáo trạng đã viện dẫn là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình anh Phạm Văn M; Gia đình anh M có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, tại phiên tòa đề nghị giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Bị cáo đã không tuân thủ quy định của Luật giao thông đường bộ là không có giấy phép lái xe và đã sử dụng rượu nhưng vẫn điều khiển xe mô tô tham gia giao thông gây tai nạn, hậu quả là chết một người. Do vậy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Hành vi phạm tội của bị cáo không liên quan nghề nghiệp, công việc của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình anh Phạm Văn M đã nhận số tiền bị cáo bồi thường là 75.000.000 đồng và không yêu cầu đề nghị gì về dân sự; Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 89B1-X của anh Phạm Văn M bị hư hỏng, thiệt hại nhưng do giá trị thiệt hại không lớn nên gia đình anh M không có yêu cầu, đề nghị gì. Do vậy về trách nhiêm dân sự không đề cập giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong trong giai đoạn điều tra.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Các vấn đề khác: Đối với hành vi để vật liệu trái phép của anh Nguyễn Văn H đã vi phạm quy định tại điểm a khoản 6 Điều 12 Mục 2 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện TL đã chuyển hồ sơ đến Cơ quan có thẩm quyền để ra quyết định xử phạt hành chính là đúng quy định.
Bởi các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm a, b khoản 2 điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Mạnh Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Mạnh Q 02 năm tù, được trừ thời gian đã tạm giam là 64 ngày = 02 tháng 04 ngày, bị cáo còn phải chấp hành 01 năm 09 tháng 26 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đối với bị cáo.
[2] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Bị cáo Bùi Mạnh Q phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 47/2024/HS-ST
Số hiệu: | 47/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lữ - Hưng Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về