Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 11 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2022/HSST ngày 08/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXSTHS ngày 28/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn D, sinh năm 1967 tại xã Yên Trung, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: thôn Văn Minh, xã Yên Trung, huyện Y, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 3/12; con ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1928 (đã chết) và bà Nguyễn Thị D2, sinh năm 1930 (đã chết); Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là thứ 5; Bị cáo có vợ là Cù Thị L, sinh năm 1970 và 02 con, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Tại bản án số 222 ngày 09/10/1996 bị cáo đã bị TAND tỉnh Nam Hà xử phạt 04 năm tù về tội “Hiếp dâm”. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Yên Trung, huyện Y, tỉnh Nam Định. Có mặt.

Bị hại: Anh Ngô Văn D1 – Sinh năm: 1976 (đã chết).

Nơi ĐKHKTT: Thôn Đồng Quan, xã Yên Lợi, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Người đại diện theo pháp luật của anh D1:

Bà Lê Thị V - Sinh năm: 1950 (Mẹ đẻ anh D1). Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Xưa, xã Yên Minh, huyện Y, tỉnh Nam Định Chị Trần Thị H – Sinh năm: 1981 (Vợ anh D1). Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Yên Lợi, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Người đại diện theo ủy quyền của bà V, chị H: Ông Ngô Văn M – Sinh năm: 1959. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Đồng Quan, xã Yên Lợi, huyện Y, tỉnh Nam Định.

Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

Ông Ngô Quang V – Sinh năm: 1952. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn D làm nghề vận chuyển vật liệu thuê bằng xe công nông ba bánh tự chế. Khoảng 08h15’ ngày 03/12/2021, D điều khiển xe công nông tự chế chở đất thuê cho khách từ xã An Lão, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam đến lò gạch tại thôn Bình Điền, xã Yên Lợi, huyện Y, tỉnh Nam Định. Cùng lúc này, anh Ngô Văn D1, sinh năm 1976 trú tại thôn Đồng Quan, xã Yên Lợi, huyện Y, tỉnh Nam Định điều khiển xe công nông tự chế dạng máy cày kéo, sau khi chở đất cho ông Ngô Quang V tại thôn Đồng Quan, xã Yên Lợi, anh D1 đi ra mặt đường thôn Đồng Quan để đi thu gom rác thải cho người dân trong thôn. Khi ra khỏi cổng nhà ông V, anh D1 xuống xe, cầm tay lái đang điều khiển xe rẽ về bên phải theo hướng đi thôn Bình Điền, xã Yên Lợi thì Nguyễn Văn D điều khiển xe công nông ba bánh tự chế đi đến. D nhìn thấy anh D1 đang điều khiển xe hướng về bên phải theo hướng đi của D, cách xe của D điều khiển khoảng 5m, nhưng không giảm tốc độ, đánh lái sang bên trái để tránh thì tấm chắn kim loại đầu xe bên phải xe công nông do D điều khiển xô vào đầu càng xe bên trái xe do anh D1 điều khiển. Anh D1 bị ngã ra đường thì bánh xe phía sau bên trái xe công nông do D điều khiển chèn qua đầu anh D1. Hậu quả: anh D1 tử vong tại chỗ.

Sau khi tai nạn xảy ra các cơ quan chức năng đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, phương tiện và thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định.

Khám nghiệm hiện trường xác định:

- Xe công nông tự chế dạng máy cày kéo có bốn bánh. Hai bánh phía trước nằm ở lề đường phía Nam, hai bánh phía sau nằm trên mặt đường. Đầu xe quay hướng Đông Nam, đuôi xe quay hướng Tây Bắc. Đo từ má ngoài của bánh xe phía sau bên phải của xe vào mép đường là 45cm. Đo từ má ngoài của bánh xe phía trước bên phải ra mép đường chuẩn là 70cm. Đo từ má ngoài của bánh xe phía sau bên trái vào mép đường chuẩn là 1m84. Bánh xe phía trước bên trái của xe trùng mép đường chuẩn.

- Tổ hợp não nằm ở lề đường phía Bắc sát với tường của cơ sở may Đồng Thanh có kích thước (80x10) cm. Đo từ tâm vết ra mép đường chuẩn là 5m45. Đo từ tâm vết đến cạnh ngoài cùng phía Tây của tường cơ sở may Đồng Thanh là 75cm.

- Vết máu dạng vũng, KT (50x40)cm, bắt đầu từ đầu thử thi chảy về hướng Nam. Đo từ tâm vết ra mép đường chuẩn là 4m90.

- Tử thi đầu quay hướng Tây Bắc, chân quay hướng Đông Nam. Đo từ đầu tử thi ra mép đường chuẩn là 5m10, đo từ gót chân phải của tử thi ra mép đường chuẩn là 3m90; đo từ gót chân trái của tử thi về phía Tây đến trục bánh xe phía sau bên trái của xe công nông dạng máy cày là 2m90.

- Xe công nông ba bánh đỗ ở mảnh đất trống phía Bắc đường, đầu xe quay hướng Đông Bắc, đuôi xe quay hướng Tây Nam.

- Trên cánh cửa của cơ sở may Đồng Thanh có vết trượt màu đen hướng Tây sang Đông, từ trên xuống dưới, KT (20x5)cm. Tâm vết cách mặt đất 35cm.

- Trên tường cơ sở may Đồng Thanh có vết trượt hướng từ Tây sang Đông dài 27cm, rộng 1cm, nhỏ dần về cuối vết. Đo từ đầu vết xuống mặt đất là 90cm, đo từ cuối vết xuống mặt đất là 92cm. Đầu vết cách mép tường phía Tây của cơ sở may về phía Đông là 2m72.

- Đo từ trục bánh sau bên phải của xe công nông dạng máy cày về phía Tây đến mép phía Tây của trụ cổng phía Đông nhà ông Ngô Quang Vân là 2m45.

Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số 1507/GĐKTHS ngày 13/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định xác định:

- Vùng đầu, mặt biến dạng.

- Vùng trán, đỉnh có đám rách toạc da cơ bờ mép tương đối gọn, lộ xương, lộ toàn bộ hộp sọ, đường rách da cơ dài 18cm.

- Thái D1 phải xuống góc hàm, qua trước vành tai có đám rách da cơ bờ mép tương đối gọn, đáy vết nham nhở, kích thước 12cm x 03cm.

- Vùng trán phải sát đường chân tóc có vết rách da cơ KT: 03cm x 0,5cm.

- Vùng trán có nhiều vết in ấn trên diện: 14cm x 07cm, tại vùng trán phải trên đám này có hai đường in ấn gần song song, cách khoảng 2,5cm.

- Từ hốc tai trái ra gò má trái có vết rách da cơ, kích thước: 6,5cm x 03cm.

- Vùng thái D1 trái có vết rách da cơ, kích thước: 03cm x 01cm.

- Giữa cột sống thắt lưng sang bên trái có nhiều vết in ấn tụ máu trên diện:

15cm x 14cm, các vết in ấn cách đều nhau 04cm.

- Vùng lưng trái có vết trợt da nông, kích thước 10cm x 09cm.

- Vùng thắt lưng trái xuống mông trợt da không liên tục, bề mặt bám dính chất màu đen trên diện 35cm x 15cm.

- Dập vỡ toàn bộ xương hộp sọ, nền sọ thành nhiều mảnh mất hình thể giải phẫu.

- Dập nát, mất gần hoàn toàn tổ chức não.

- Sập hai hố mắt.

- Dập, mất vững toàn bộ xương hàm, mặt.

- Vỡ sụn giáp, vỡ đốt sống cổ 5, 6.

- Vỡ xương bả vai phải.

- Gãy xương đòn hai bên.

- Gãy phức tạp cung trước xương sườn 2, 3, 4, 5, 6 bên phải.

- Gãy phức tạp cung trước xương sườn 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 bên trái.

Kết luận nguyên nhân chết: Nạn nhân Ngô Văn D1 chết do chấn thương vỡ sập xương hộp sọ, dập tổ chức não.

Ngày 03/12/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện Y quyết định trưng cầu giám định nồng độ cồn trong máu của Nguyễn Văn D và Ngô Văn D1.

Tại bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số 048/2021/HP-TTPY ngày 09/12/2021 của Trung tâm y tế - Sở y tế Ninh Bình kết luận về nồng độ cồn trong mẫu máu của Ngô Văn D1: Mẫu hỏng (Vỡ hồng cầu).

Tại bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số 049/2021/HP-TTPY ngày 09/12/2021 của Trung tâm y tế - Sở y tế Ninh Bình kết luận về nồng độ cồn trong mẫu máu của Nguyễn Văn D: Mẫu hỏng (Vỡ hồng cầu).

Ngày 23/12/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện Y quyết định trưng cầu giám định dấu vết thu giữ trên người anh Ngô Văn D1 và thu giữ trên xe công nông ba bánh.

Tại bản kết luận giám định số 205/GĐKTHS ngày 26/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:

-Mẫu chất màu đen bám dính tại mặt trước tôn chắn đầu xe bên phải xe công nông được niêm phong ký hiệu N1 và mẫu chất màu đen bám dính tại mặt trước thùng xe bên phải xe công nông ba bánh được niêm phong ký hiệu N2 gửi giám định đều là nhựa, đều cùng loại với mẫu nhựa màu đen thu tại đầu mút tay nắm bên trái của xe máy cày được niêm phong ký hiệu M1 gửi làm mẫu so sánh.

- Mẫu chất màu đen bám dính tại lưng, mông nạn nhân Ngô Văn D1 được niêm phong ký hiệu D1 gửi giám định không đủ yếu tố giám định do lượng mẫu quá ít và lẫn nhiều tạp chất.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra tai nạn, Nguyễn Văn D và gia đình đã bồi thường cho gia đình anh Ngô Văn D1 số tiền 225.000.000 đồng (Hai trăm hai mươi lăm triệu đồng). Bà Lê Thị V là mẹ của anh D1 và chị Trần Thị H là vợ của anh D1 không có đề nghị gì khác.

Về vật chứng vụ án và các tài sản liên quan:

Đối với 01 xe công nông tự chế qua điều tra xác định là xe của Nguyễn Văn D, là loại xe cấm lưu hành.

Đối với 01 xe máy kéo tự chế bằng máy cày cầm tay là xe của anh Ngô Văn D1, Cơ quan CSĐT Công an huyện Y đã trả lại cho chị Trần Thị Hằng là vợ của anh D1.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 36/Ctr –VKS-YY ngày 06/6/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định đã truy tố Nguyễn Văn D về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xác nhận bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định truy tố về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát viên nhân dân huyện Y giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ"; đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Văn D từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước đối với 01 xe công nông tự chế là loại xe cấm lưu hành của Nguyễn Văn D.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn D tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án như: Sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, bản kết luận giám định pháp y tử thi và lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 08h 15’ ngày 03/12/2021, Nguyễn Văn D điều khiển xe công nông ba bánh tự chế chở đất đi đến đoạn đường thuộc địa phận thôn Đồng Quan, xã Yên Lợi, huyện Y, tỉnh Nam Định, thấy anh Ngô Văn D1 đang điều khiển xe công nông dạng máy cày kéo đang chuyển hướng về bên phải theo hướng cùng chiều đi của Nguyễn Văn D, nhưng D không giảm tốc độ, đánh lái sang trái để tránh nên tấm chắn kim loại đầu xe bên phải xe va chạm với càng điều khiển xe của anh Ngô Văn D1 làm anh D1 ngã ra đường, bánh xe phía sau bên trái D điều khiển chèn qua người anh D1. Hậu quả: anh Ngô Văn D1 tử vong tại chỗ. Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn D đã vi phạm khoản 1, 3 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT, gây hậu quả nghiêm trọng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự giao thông đường bộ, đồng thời xâm phạm tính mạng của người khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và hiểu rõ các quy định của Luật giao thông đường bộ nhưng vẫn vi phạm gây hậu quả làm chết người nên bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự như kết luận của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử thấy:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo cùng gia đình đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại; đại diện gia đình bị hại có đơn xin bãi nại không có yêu cầu khởi tố đối với bị cáo vì vậy bị cáo sẽ được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[4] Về hình phạt: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội; căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú ổn định rõ ràng do vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương, dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương cũng đảm bảo việc cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo cùng với gia đình của bị hại đã thoả thuận giải quyết xong vấn đề dân sự, người đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu nào khác, vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với 01 xe công nông tự chế qua điều tra xác định là xe của Nguyễn Văn D, là loại xe cấm lưu hành nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước. Đối với 01 xe máy kéo tự chế bằng máy cày cầm tay là xe của anh Ngô Văn D1, Cơ quan CSĐT Công an huyện Y đã trả lại cho chị Trần Thị Hằng là vợ của anh D1 là đúng theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[9] Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn D cho Ủy ban nhân dân xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước đối với 01 xe công nông tự chế là loại xe cấm lưu hành của Nguyễn Văn D.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/6/2022 giữa Cơ quan CSĐT công an huyện Y và Chi cục thi hành án dân sự huyện Y).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện ý Yên - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;