TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 38/2023/HS-PT NGÀY 04/04/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 4 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh D xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 22/2023/TLPT-HS ngày 17/12/2023. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của TAND thành phố C, tỉnh D.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Minh T1, sinh năm 1969; Nơi cư trú: tổ 25B, khu 3, phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Q. Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ văn hóa: lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam. Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị Q. Có vợ là Nguyễn Thị A và có 02 con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Bản án số 55/2014/HSST ngày 18/4/2014 của Toà án nhân dân tỉnh Q xử phạt 30 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 31/8/2015; hình phạt bổ sung ngày và án phí ngày 11/11/2014. Bị cáo đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1946 (Đã chết).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
+ Chị Phùng Thị T3, sinh năm 1967; Trú tại: Thôn Q, xã L, thành phố C, tỉnh D.
+ Chị Phùng Thị T4, sinh năm 1970; Trú tại: Thôn B, xã L, thành phố C, tỉnh D.
+ Anh Phùng Văn T5, sinh năm 1976; Trú tại: Thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh D.
+ Anh Phùng Văn T6, sinh năm 1979; Trú tại: Thôn B, xã L, thành phố C, tỉnh D.
Chị T3, chị T4, anh T5 ủy quyền cho anh T6. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần vận tải ô tô Q; Địa chỉ: 131 đường T, phường C, thành phố H, tỉnh Q. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn T7 – Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng H – Trưởng ban pháp chế. Vắng mặt.
Bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 29/8/2022, Nguyễn Minh T1, có giấy phép lái xe hạng C theo quy định, điều khiển xe ô tô BKS:14C-xxxxx (xe của Công ty Cổ phần vận tải ô tô Q) chở hàng từ Cảng Cái Lân, tỉnh Q đến huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày T1điều khiển xe ô tô theo hướng Sao Đỏ - Bắc Giang đi đến đoạn Km 95+730, Quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn Thanh Tảo, xã Lê Lợi, thành phố C, tỉnh D. Đây là đoạn đường được trải bê tông nhựa, rộng 6.4 mét, tim đường có vạch kẻ sơn màu vàng đứt đoạn phân chia chiều đường xe chạy. T1 quan sát cách đầu xe ô tô của T1 khoảng 20 mét có bà Phạm Thị T2 đang điều khiển xe đạp đi phía trước cùng chiều, bà T2 đi xe đạp sát vào mép đường bên phải, T1 không giảm tốc độ, bóp còi xe và điều khiển xe ô tô vượt bên trái xe đạp của bà T2 thì phần bánh thứ 2 bên phải xe ô tô va chạm với phần phía sau xe đạp do bà T2 điều khiển làm bà T2 ngã xuống đường và bị hàng bánh thứ ba bên phải xe ô tô do T1điều khiển chèn qua. Sau khi va chạm xe đạp đổ nghiêng về bên trái, xe nằm trên vỉa hè cách mép đường bên phải là 90cm, đầu xe quay hướng Tây Nam, đuôi xe quay hướng tim đường; từ trục bánh xe sau xe đạp 1,1 mét về hướng Sao Đỏ là vết cà xước trên mặt đường dài 1,7 mét, đầu vết hướng Sao Đỏ, cách mép đường bên phải 20 cm, cuối vết huống Bắc Giang, cách mép đường bên phải 10 cm; Cách trục sau xe đạp 0,9 mét về hướng Bắc Giang xác định là bà Phạm Thị T2 đang nằm úp mặt trên vỉa hè, đầu quay hướng Tây Nam, cách mép đường bên phải 40 cm, chân quay hướng Bắc Giang, cách mép đường bên phải 10 cm; từ trục sau xe đạp 30cm về hướng Bắc Giang phát hiện vết phanh phương tiện trên mặt đường có chiều dài 6.7 mét, đầu vết hướng Sao Đỏ, cách mép đường bên phải 10 cm, cuối vết hướng Bắc Giang trùng với trục sau cùng bên phải của xe ô tô BKS: 14C-xxxxx và mép đường bên phải; Xe ô tô BKS: 14C-xxxxx đang đỗ trên mặt đường đầu xe quay hướng Bắc Giang, đuôi xe quay hướng Bắc Giang, trục bánh trước thứ nhất ngoài cùng bên phải cách mép đường bên phải 50 cm, đuôi xe ô tô quay hướng Sao Đỏ, trục bánh sau cùng bên phải xe ô tô trùng với mép đường bên phải. Hậu quả bà T2 chết tại hiện trường do đa chấn thương, vết thương; xe đạp hư hỏng thiệt hại 215.000 đồng.
Về việc thu giữ, xử lý đồ vật, tài liệu: Cơ quan CSĐT đã quản lý và trả lại cho anh Phùng Văn T6 con trai bà T2 01 xe đạp loại xe nữ, màu xanh lá cây; cho Công ty Cổ phần vận tải ô tô Q 01 xe ô tô BKS: 14C-xxxxx và tất cả các giấy tờ liên quan. Giấy phép lái xe số 22097100xxxx, hạng C, do sở giao thông vận tải tỉnh Q cấp ngày 08/3/2022 mang tên Nguyễn Minh T1hiện đang được quản lý tại hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Minh T1 đã tự nguyện bồi thường 90.000.000 đồng cho đại diện gia đình bị hại, đại diện gia đình bị hại không yêu cầu gì thêm. Công ty cổ phần vận tại ô tô Q sau khi nhận lại xe, xác định xe không hư hỏng nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST ngày 13/01/2023, Tòa án nhân dân thành phố C căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 5 Điều 260; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Minh T1 21 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 13/01/2023, bị cáo T1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, xuất trình biên lai thu án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm; trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn bố bị cáo được tặng thưởng huân chương, anh trai bị cáo là liệt sỹ, xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện VKSND tỉnh D phát biểu quan điểm: Tòa án án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo đúng tội danh, đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên có căn cứ đề nghị hội đồng xét xử giảm cho bị cáo một phần hình phạt từ 01 đến 03 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận toàn bội hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận định giá tài sản, lời khai người làm chứng, có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 29/8/2022, tại Km 95+730, Quốc lộ 37, thuộc địa phận thôn Thanh Tảo, xã Lê Lợi, thành phố C, tỉnh D. Nguyễn Minh T1điều khiển xe ô tô BKS: 14C-xxxxx hướng Sao Đỏ - Bắc Giang do vượt xe không đảm bảo quy định đã va chạm phần bánh thứ hai bên phải của xe ô tô với phần phía sau xe đạp do bà Phạm Thị T2 điều khiển đi phía trước cùng chiều. Hậu quả bà T2 chết tại hiện trường. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự như Tòa án cấp sơ thẩm xác định.
[3] Về hình phạt: Bị cáo được được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã tự nguyện bồi thường 90.000.000 đồng cho gia đình người bị hại, gia đình người bị hại không có đề nghị gì thêm về trách nhiệm dân sự, đề nghị xin giảm phạt cho bị cáo. Bị cáo có bố đẻ là người có công, được tặng thưởng huân chương. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo tiếp tục thành khẩn nhận tôị, thể hiện rõ sự ăn năn hối lỗi, xuất trình biên lai về việc đã thực hiện nghĩa vụ nộp án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên có căn cứ giảm cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.
[4] Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh T1, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 05/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh D.
Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 5 Điều 260; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T1 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án, ngày 04/4/2023.
2. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, 04/4/2023./.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 38/2023/HS-PT
Số hiệu: | 38/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về