Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 27/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY19/08/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 19 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXX - HS ngày 08 tháng 8 năm 2022 đối với:

Bị cáo: LÊ THỊ H, sinh năm 1985 Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh H; Giới tính: Nữ; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Cán bộ Ngân hàng; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn S và bà Nguyễn Thị N; Chồng là Vũ Văn T(đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 30/3/2022 tại xã H, huyện T, tỉnh H theo các Lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú của Cơ quan CSĐT Công an huyện T, Viện kiểm sát nhân dân huyện T và Tòa án nhân dân huyện T.

“ Bị cáo có mặt tại phiên tòa”.

Bị hại: Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1991 “đã chết”

Người đại diện hợp pháp cho anh D:

- Chị Lưu Thùy N, sinh năm: 1997 “là vợ”

Trú tại: Thôn N, xã K, huyện H, tỉnh T.

- Ông Hoàng Vĩnh N, sinh năm 1960 “là bố đẻ”

- Bà Đỗ Thị H “là mẹ đẻ” Đều trú tại: Thôn N, xã N, huyện N, tỉnh N (Đều vắng mặt tại phiên tòa)

*Người làm chứng:

- Chị Nguyễn Thị Linh T, sinh năm 1993 “vắng mặt

Trú tại: Thôn L, xã Đ, huyện T, tỉnh H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 29/01/2022, Lê Thị H có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Hyundai I10 biển kiểm soát (BKS) 89A-xxxxx đi trên đường 376 thuộc địa phận xã H, huyện T, tỉnh H hướng đi từ cầu T đi ngã tư phố G, thị trấn V. Khi đi đến ngã ba rẽ vào khu dân cư mới thôn T, xã H, huyện T, H quan sát thấy có 01 xe mô tô cách đó khoảng 40m đi ngược chiều và nghĩ rằng chuyển hướng an toàn nên điều khiển xe ô tô đi chậm, bật tín hiệu xi nhan bên trái và điều khiển xe chuyển hướng để vào khu dân cư mới. Khi H điều khiển xe sang bên trái đường, đầu xe ô tô đi qua vạch phân chia giữa hai chiều đường khoảng 1,5m thì xe ô tô do H điều khiển va chạm với xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS 18B2- xxxxx do anh Hoàng Văn D điều khiển chở sau là chị Lưu Thùy N (là vợ anh D) hướng đi từ Thị trấn V đi cầu T. Phần đầu xe mô tô do anh D điều khiển va chạm với phần đầu bên phải xe ô tô do H điều khiển làm anh D và chị N ngã ra đường. Hậu quả anh D bị chết, chị N bị thương tích được điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh H, xe mô tô và xe ô tô bị hư hỏng.

Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến Hnh lập biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe ô tô BKS: 89A-xxxxx; Honda LEAD BKS 18B2-xxxxx và biên bản khám nghiệm tử thi đối với anh Hoàng Văn D.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 18/GĐPY-PC09 ngày 09/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh H kết luận: Nguyên nhân chết của nạn nhân Hoàng Văn D là do: Suy tuần hoàn, hô hấp cấp do chấn thương ngực kín. Thể loại chết không tự nhiên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 22/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận: Giá trị thiệt hại của xe ô tô BKS 89A-xxxxx là 6.050.000 đồng. Giá trị thiệt hại của xe mô tô Honda LEAD có BKS 18B2-xxxxx là 3.619.000 đồng.

- Đối với thương tích của chị Lưu Thùy N, quá trình điều tra chị N từ chối giám định thương tích. Việc từ chối giám định thương tích là hoàn toàn tự nguyện và cam kết sẽ không có thắc mắc, khiếu kiện gì.

* Khám nghiệm hiện trường xác định:

Hiện trường là khu vực ngã ba giao nhau giữa đường ĐT376 và đường liên thôn đi vào thôn T, xã H. Đường thôn T trải bê tông bằng phẳng có chiều rộng 9m. Đường ĐT376 trải áp phan, rộng 10,6m và chia làm 02 chiều đi(một chiều từ ngã tư Phố G, thị trấn V đi cầu T, một chiều từ cầu T đi Ngã tư Phố G). Điểm mốc là cột KM H8/36 (Km36+800) tại mép đường phía bên phải theo chiều từ ngã tư phố G đi cầu T. Mép đường làm chuẩn là mép đường bên phải tính theo chiều từ ngã tư phố G đi cầu T. Hiện trường để lại các dấu vết sau:

- Vùng nhựa vỡ và đồ ăn ký hiệu là 1 có kích thước (2,35 x 3)m, tâm vùng cách mép đường bên phải theo chiều đi từ ngã tư Phố G, đi cầu T là 4,2m, cách điểm mốc cố định là 17,6m, cách trục bánh trước xe mô tô là 9,6m, cách trục bánh sau bên phải xe ô tô là 13,1m.

- Xe ô tô nhãn hiệu Hyundai I10 BKS 89A-xxxxx (ký hiệu A) đỗ chéo ở trên đường đi vào thôn T, xã H, đầu xe hướng vào khu dân cư thôn T, đuôi xe hướng ra đường ĐT376 hướng đi cầu T; Trục bánh trước bên phải xe ô tô cách mép đường bên phải theo chiều đi từ ngã tư Phố G đi cầu T là 1,8m, cách tâm vùng số 1 là 15,5m; Trục bánh sau bên phải của xe ô tô cách mép đường bên phải theo chiều đi từ ngã tư Phố G đi cầu T là 65cm, cách tâm vùng 1 là 13,1m và cách trục trước xe mô tô là 22,1m.

- Xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS 18B2- xxxxx (ký hiệu B), xe đổ nghiêng sang trái nằm ngang mép đường hướng cầu T đi ngã tư phố G; Đầu xe quay ra cánh đồng thôn T, xã H, đuôi xe quay về cánh đồng thôn H, xã H; Trục bánh trước xe mô tô cách mép đường bên phải theo chiều đi từ ngã tư Phố G đi cầu T là 10,3m, cách tâm vùng 1 là 9,6m và cách điểm mốc cố định là 14,2m; Trục bánh sau xe mô tô cách mép đường bên phải theo chiều đi từ ngã tư Phố G đi cầu T là 11,6m, cách tâm vùng 1 là 10,65m.

Mở rộng khám nghiệm xác định có nhiều mảnh nhựa vỡ và đồ ăn nằm rải rác trên mặt đường các hướng, xác định do người, phương tiện giao thông qua lại làm xáo trộn.

Hướng cầu T đi ngã tư phố G tại mép đường phía bên phải theo chiều đi có một biển báo giao nhau với đường không ưu tiên cách tâm vùng 1 khoảng 100m. Hướng ngã tư phố G đi cầu T tại mép đường phía bên phải theo chiều đi có một biển báo giao nhau với đường không ưu tiên cách tâm vùng 1 khoảng 120m.

* Khám nghiệm xe ô tô BKS 89A-xxxxx xác định: Ba đờ sốc đèn gầm phía trước bên phải người điều khiển bị vỡ bật rời ra khỏi xe có kích thước (1,2 x 0,7)m; điểm cao nhất của vết cách mặt đất 72cm; Biển kiểm soát gắn phía trước đầu xe bị đẩy cong từ trước về sau; tại vị trí bị đẩy cong có để lại chất bám dính màu xanh, KT (4x1)cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 36cm. Tai xe phía dưới bên phải người điều khiển bị bẹp lõm có kích thước (10 x 4)cm có chiều từ trước về sau. Mặt ngoài phía dưới cánh cửa xe bên phải người điều khiển có vết trượt lõm, có KT (73 x 20)cm. Ốp nhựa trang trí cánh cửa xe bên phải phía trước người điều khiển bị bật rời ra khỏi xe, có KT (93 x 9)cm. Ốp nhựa trang trí cánh cửa xe bên phải phía sau người điều khiển có vết nứt vỡ, KT (9 x 4)cm. Hộp Baliê phía dưới bên phải người điều khiển có vết trượt lõm, có KT (1,5 x 0,11)m, có chiều từ trước về sau, điểm thấp nhất cách mặt đất 22cm. Tại mặt ngoài la răng bánh xe phía trước bên phải người điều khiển có để lại chất bám dính màu tím có KT (1 x 0,5) cm, điểm gần nhất cách chân van 26cm. Hệ thống phanh, hệ thống lái còn tác dụng.

* Khám nghiệm xe mô tô BKS 18B2-xxxxx xác định: Gương chiếu hậu bên trái người điều khiển bị bật rời ra khỏi vị trí ban đầu. Đầu núm tay phanh bên phải người điều khiển có vết mài mòn kim loại có KT (1,5 x 1,5)cm. Tại mặt ngoài đầu núm tay cầm phía bên phải người điều khiển có vết trượt xước, mài mòn kim loại có KT (1,5 x 1,5) cm. Toàn bộ cụm đền pha và đồng hồ hiển thị công tơ mét phía trước đầu xe bị dập vỡ, bật rời ra khỏi vị trí ban đầu, có KT (40 x 27)cm. Vai trạc ba bị đẩy cong khỏi vị trí ban đầu chiều từ trước về sau. Ốp nhựa bảo vệ cụm đèn xi nhan phía trước bên trái người điều khiển bị nứt vỡ có KT (13 x 5)cm, điểm thấp nhất của vết cách mặt đất là 85cm. Mặt lạ phía trước đầu xe bị vỡ bật rời ra khỏi vị trí ban đầu, KT (38 x 30)cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 72cm. Tại mặt ngoài bàn để chân người ngồi sau bên phải người điều khiển có để lại vết trượt xước không rõ hình dạng, có KT (11 x 3)cm. Ốp nhựa bên phải người điều khiển tiếp giáp với bàn để chân phía sau có vết trượt xước không rõ hình dạng, có KT (3 x 3)cm. Khung kim loại bảo vệ bên ngoài xe, phía bên phải người điều khiển có vết mài mòn kim loại có KT (8 x 1) cm. Ốp nhựa bảo vệ bô xe bên phải người điều khiển có vết nứt vỏ mài mòn nhựa có KT (23 x 10) cm. Khung kim loại bảo vệ bên ngoài xe, phía bên trái người điều khiển có vết bẹp lõm có KT (6 x 1)cm. Thảm để chân kim loại phía trước bên trái người điều khiển có vết bẹp méo KT (6 x 1)cm. Hệ thống phanh còn tác dụng, hệ thống lái không còn tác dụng.

* Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra sự việc bị cáo H đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 400.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Lưu Thùy N(là vợ anh D), ông Hoàng Vĩnh N và bà Đỗ Thị H (là bố mẹ đẻ anh D) đã nhận đủ số tiền đồng thời có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

* Về vật chứng của vụ án:

- 01 xe ô tô nhãn nhãn hiệu Hyundai I10 BKS 89A-xxxxx mang tên chủ sở hữu là Lê Thị H. Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện T đã trả cho Lê Thị H. Đối với thiệt hại của xe ô tô bị cáo không có yêu cầu, đề nghị gì.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS 18B2-xxxxx mang tên chủ sở hữu là chị Lưu Thùy N. Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện T đã trả cho chị Lưu Thùy N. Đối với thiệt hại của xe mô tô chị N không có yêu cầu, đề nghị gì.

Quá trình điều tra, bị cáo H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và tỏ ra ăn năn hối cải, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 25/CT-VKS - TL ngày 08/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Lê Thị H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

*Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo nhận thức được hậu quả do hành vi mà mình đã gây ra nên đã cùng gia đình đến thăm viếng, động viên, khắc phục hậu quả bồi thường tổn thất cho gia đình người bị hại tổng số tiền là 400.000.000 đồng.

Đại diện gia đình người bị hại đã nhận đủ số tiền trên và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đồng thời không đề nghị gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

Điều 35 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị H phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".

- Xử phạt: Bị cáo Lê Thị H số tiền từ 30.000.000đồng đến 40.000.000đồng. Nộp sung công quỹ Nhà nước.

- Trách nhiệm dân sự: Các bên đã tự giải quyết với nhau xong và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Vật chứng: Không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lê Thị H tự bào chữa: Nhất trí với quyết định truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T xác định bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại lời khai có trong hồ sơ vụ án, người đại diện hợp pháp cho bị hại là chị Lưu Thùy N(là vợ anh D), ông Hoàng Vĩnh N và bà Đỗ Thị H (là bố mẹ đẻ anh D) xác định vụ việc tai nạn là điều không mong muốn, bị cáo đã thành khẩn khai báo nhận ra lỗi của mình, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình nên đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, không đề nghị gì về trách nhiệm dân sự.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người đại diện hợp pháp cho bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp cho người bị hại chị Lưu Thùy N(là vợ anh D), người làm chứng chị Nguyễn Thị Linh T và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 29/01/2022; Kết luận giám định pháp y; Lời khai của người đại diện hợp pháp cho người bị hại. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 29/01/2022, Lê Thị H có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe ô tô BKS 89A-xxxxx đi trên đường 376 thuộc địa phận xã H, huyện T, tỉnh H hướng đi từ cầu T đi ngã tư phố G, thị trấn V. Khi đi đến ngã ba rẽ vào khu dân cư mới thôn T, xã H, huyện T, H quan sát thấy có 01 xe mô tô cách đó khoảng 40m đi ngược chiều và nghĩ rằng chuyển hướng an toàn nên điều khiển xe ô tô đi chậm, bật tín hiệu xi nhan bên trái và điều khiển xe chuyển hướng để vào khu dân cư mới. Khi H điều khiển xe sang bên trái đường, đầu xe ô tô đi qua vạch phân chia giữa hai chiều đường khoảng 1,5m thì xe ô tô do H điều khiển va chạm với xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS 18B2-xxxxx do anh Hoàng Văn D điều khiển chở sau là chị Lưu Thùy N (là vợ anh D) hướng đi từ Thị trấn V đi cầu T. Phần đầu xe mô tô do anh D điều khiển va chạm với phần đầu bên phải xe ô tô do H điều khiển làm anh D và chị N ngã ra đường. Hậu quả anh D bị chết, chị N bị thương tích được điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh H và ra viện với tình trạng sức khỏe ổn định theo tổng kết bệnh án ngày 21/02/2022.

Hành vi chuyển hướng khi chưa đảm bảo điều kiện an toàn gây tai nạn giao thông của bị cáo đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số: 09/2013/TTLT - BCA - BQP - BTP - VKSNDTC - TANDTC ngày 28/8/2013 thì bị cáo Lê Thị H đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo phạm tội do lỗi vô ý. Khi chuyển hướng xe ô tô, bị cáo không tuân thủ các quy định của luật giao thông đường bộ nên đã xảy ra va chạm với xe mô tô BKS 18B2-xxxxx do anh Hoàng Văn D điều khiển chở sau là chị Lưu Thùy N (là vợ anh D) đi ngược chiều với xe ô tô. Hậu quả anh D bị chết, chị N bị thương tích được điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh H.

Tuy nhiên, xét nguyên nhân và lỗi dẫn đến tai nạn giao thông: Người bị hại là anh D khi tham gia giao thông, điều khiển xe mô tô đi đúng làn đường nhưng không đi vào phần đường phía bên phải mà đi sang phần đường phía bên trái gần giải phân cách giữa hai làn đường nên đã va chạm với đầu xe ô tô của bị cáo. Do vậy, khi xem xét hình phạt hội đồng xét xử cũng cân nhắc cần tuyên phạt bị cáo một mức hình phạt nhất định tương xứng và phù hợp với mức độ lỗi mà bị cáo đã gây ra. Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, đặc điểm nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo hiện nay để ra một bản án có tính răn đe giáo dục đối với bị cáo và có tính phòng ngừa chung.

[4] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Trước khi phạm tội, bị cáo và gia đình luôn chấp hành tốt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở nơi làm việc và nơi cư trú. Bị cáo có nhân thân tốt. Không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, đại diện gia đình người bị hại là chị N, ông N và bà H có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Mẹ đẻ của bị cáo được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tặng Huy chương vì sự nghiệp Ngân hàng. Bị cáo có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng mức án nhẹ nhất được chính quyền địa phương xác nhận nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích nêu trên, HĐXX xét thấy bị cáo phạm tội do lỗi vô ý, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, mẹ đẻ bị cáo được tặng Huy chương vì sự nghiêp Ngân hàng, những người đại diện hợp pháp cho bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, người bị hại cũng có lỗi một phần nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Giữa bị cáo và những người đại diện gia đình bị hại đã tự thỏa thuận bồi thường xong. Những người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu, đề nghịgì. Xét đây là sự tự nguyện của bị cáo và đại diện gia đình bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy rằng không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- 01 xe ô tô nhãn nhãn hiệu Hyundai I10 BKS 89A-xxxxx mang tên chủ sở hữu là Lê Thị H. Ngày 04/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trao trả cho Lê Thị H.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead BKS 18B2-xxxxx mang tên chủ sở hữu là chị Lưu Thùy N. Ngày 04/4/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện T đã trả cho chị Lưu Thùy N.

Việc xử lý các vật chứng trên của Cơ quan điều tra là đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với bị cáo và các vấn đề khác cần giải quyết trong vụ án là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Về tội danh:Tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Thị H số tiền là 40.000.000đồng(Bốn mươi triệu đồng chẵn). Số tiền trên bị cáo phải nộp sung công quỹ Nhà nước.

4. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

5. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Không xem xét giải quyết.

6 .Về án phí: Bị cáo Lê Thị H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

7. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo; Vắng mặt những người đại diện hợp pháp của người bị hại. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đối với những người đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án,

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lữ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;