Bản án 26/2023/HS-ST về tội vi phạm quy định tham gia vi phạm quy định

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 29/9/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2023/TLST-HS ngày 07/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân H, sinh ngày 25 tháng 9 năm 2004, tại: xã Nga Ph, huyện Nga Th, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn 5, xã Nga Ph, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân H (đã chết) và bà Đào Thị T, sinh năm 1983; chưa có vợ, con. Tiền án; tiền sự: không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

- Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Nữ H; địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa, số 32, đại Lộ Lê Lợi, phường Điện B, thành phố Thanh Hóa (Quyết định về việc cử trợ giúp viên pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng, số 257/QĐ - TGPL, ngày 28/6/2023), có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Duy B - Sinh năm 1962; địa chỉ: Tiểu khu Yên H 2, thị trấn N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

* Người làm chứng: Chị Đào Thị T - Sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn 5, xã Nga Ph, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau: Trưa ngày 28/02/2023, Nguyễn Xuân H đang ở nhà tại thôn 5, xã Nga Ph thì nhận được cuộc gọi điện thoại của anh Đào Văn Ng, sinh năm 1986 (cậu ruột) gọi H đến nhà ăn cơm, H đồng ý. H không có giấy phép lái xe mô tô nhưng nhìn thấy xe mô tô BKS 36G1-X của chị Đào Thị T (mẹ đẻ) đang dựng ở sân, chìa khóa đang móc chung với chùm chìa khóa nhà, H vẫn tự ý điều khiển xe đến nhà anh Ng ăn cơm, uống rượu và ở lại nghỉ trưa. Đến chiều, H điều khiển xe mô tô từ nhà anh Ng đến thị trấn N.

Đến 17 giờ cùng ngày, Nguyễn Xuân H điều khiển xe mô tô đi từ thị trấn N để về nhà ở Nga Ph theo hướng Bắc Nam (phần đường phía Tây). Khi đến km 200+900 Quốc lộ 10B đoạn thuộc thôn 1, xã Nga Trung, huyện N do muốn vượt một chiếc xe tải đang đi phía trước cùng chiều, dù không đảm bảo an toàn nhưng Nguyễn Xuân H vẫn tăng tốc độ đồng thời đánh lái sang bên trái đường (phần đường phía Đông) để vượt, dẫn đến xe mô tô H điều khiển đâm trực diện với xe mô tô BKS 36F4-X do bà Mai Thị H1, sinh năm 1968; địa chỉ: tiểu khu Yên H 2, thị trấn N, huyện N đi ngược chiều. Hậu quả: toàn bộ phần đầu của hai xe mô tô; phần đầu, mặt của H và bà H1 va chạm mạnh với nhau khiến cả hai người và phương tiện đều bị ngã đổ xuống đường. Hai xe bị hư hỏng nặng. Bà H1 tử vong tại chỗ. Nguyễn Xuân H được người dân đưa đi cấp cứu và điều trị tại các cơ sở y tế, do chấn thương sọ não, gãy xương đùi.

Theo phiếu kết quả xét nghiệm ngày 01/3/2023 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa thể hiện: định lượng Ethanol trong máu của H là 108,2mg/dL. (giá trị quy đổi được tính bằng 1082mg/l).

Nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ hai xe mô tô liên quan đến vụ tai nạn.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện: nơi xảy ra vụ tai nạn là km200+900, Quốc lộ 10b, đoạn thuộc địa phận thôn 1, xã Nga Trung, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, được trải nhựa bằng phẳng, có vạch kẻ đứt đoạn màu vàng phân chia làn đường. Lòng đường rộng 7m, hai bên lề đường là các nắp cống thoát nước bằng bê tông rộng 1m. Vị trí va chạm trên đường nằm trên lề đường phía đông (mặt nắp cống), là vết cà xước bê tông có kích thước 2x3cm, chiều hướng Bắc - Nam, vết cách mép đường phía đông 05cm về phía đông.

Kết quả khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông:

- Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh đen bạc, mang BKS 36G1- X do H điều khiển có các dấu vết chính sau: vành kim loại phía trước bị cong gập, biến dạng theo chiều từ trước về sau, từ trái qua phải, vị trí tâm vết biến dạng cách van bơm hơi 07cm ngược chiều kim đồng hồ. Tất cả các thanh nan hoa kim loại bị gãy; Hai phuộc kim loại phía trước xe bị biến dạng, cong xoắn theo chiều từ phải qua trái, từ trước về sau. Phần phía dưới phuộc kim loại bên trái bị gãy; Toàn bộ ốp nhựa phía trước đầu xe, ốp nhựa đầu xe, cụm đèn chiếu sáng, đèn xi nhan trái, cánh yếm trái, ốp nhựa chắn bùn trước bị gãy vỡ, rời khỏi thân xe; Cần số phía trước bị cong gập, biến dạng từ trước về sau, từ phải qua trái.

- Xe mô tô nhãn hiệu Honda Supper Dream, màu nâu, BKS 36F4-X do bà H1 điều khiển có các dấu vết chính sau: vành kim loại bánh trước bị cong gập, biến dạng theo chiều từ trước về sau, từ phải qua trái, vị trí tâm vết cong gập đối xứng với van bơm hơi. Các nan hoa kim loại bị gãy, cong vênh, biến dạng: Cạnh ngoài bên trái vành bánh trước có các vết cả xước kim loại chiều hưởng từ tâm ra ngoài, kích thước (4x1)cm, cách vị trí van bơm hơi 16cm cùng chiều kim đồng hồ. Mặt ngoài phuộc kim loại phía trước bên trái có các vết cả xước kim loại, vết tì trượt bám dính chất màu đen có chiều hướng từ trước về sau, kích thước (10x3)cm, vết cao cách mặt đất từ 23- 33cm.

Kết quả khám nghiệm tử thi, các dấu vết, tổn thương trên cơ thể gồm: rách da cơ không rõ hình không liên tục trong diện 16cmx12cm vùng trán và bên trái hai môi, vết có chiều từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, bờ mép vết nham nhở; rách da cơ không rõ hình, kích thước 4cmx 2,5cm tại cổ và mu bàn tay trái, vết có chiều từ dưới lên trên chếch từ sau về trước; xây xước da không rõ hình không liên tục, kích thước 12cm x 7,5cm tại gối phải và mặt trước trong 1/3 trên cẳng chân phải, vết có chiều hướng từ trước về sau; xây xước da không rõ hình không liên tục trong diện 78cm x 15cm từ mặt trước đùi trái đến 1/3 dưới cẳng chân trái, vết có chiều hướng từ trước về sau, từ trên xuống dưới; gãy 1/3 dưới hai xương cẳng tay trái; gãy 1/3 dưới xương đùi trái; gãy 1/3 trên và 1/3 dưới hai xương cẳng chân trái.

Mổ một phần tử thi: vùng đầu mặt: tổ chức da cơ vùng trán dập rách tụ máu. Vỡ xương chính mũi. Vỡ xương gò má hai bên, gãy xương hàm trên, xương hàm dưới. Vỡ xương hộp sọ vùng trán thành nhiều mảnh có mảnh rời. Rách màng cứng tổ chức não thùy trán bán cầu đại não hai bên bị dập.

Ngày 28/02/2023, Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 15/QĐ-CSĐT, trưng cầu Phòng kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giải phẫu tử thi để xác định nguyên nhân chết của bà Mai Thị H1.

Tại Kết luận số 989/GĐPY-PC09 ngày 06/3/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Các vết rách da, cơ, xây xước da tại vùng: Mặt, tay trái, hai chân, + Gãy 1/3 dưới hai xương cẳng tay trái.

+ Gãy 1/3 dưới xương đùi trái.

+ Gãy 1/3 trên và 1/3 dưới hai xương cẳng chân trái.

+ Dập, rách, tụ mẫu tổ chức da, cơ vùng trán

+ Vỡ xương chính mũi; vỡ xương gò má hai bên; gãy xương hàm trên, xương hàm dưới.

+ Vỡ xương hộp sọ, rách màng cứng.

+ Dập não.

- Nguyên nhân chết: Đa chấn thương.

Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể Nguyễn Xuân H vào ngày 28/02/2023 tại Bệnh viện đa khoa huyện N thể hiện: Vùng trán có vết thương lóc da, lộ xương sọ, kích thước (15x10)cm. Vùng đùi chân trái được băng bó nẹp kín, không thể tháo băng nên không xem xét được thương tích bên trong.Ngoài ra không còn thương tích nào khác.

Ngày 03/3/2023, CQĐT ra Quyết định số 17/QĐ-CSĐT trưng cầu Phòng KTHS Công an tỉnh Thanh Hóa giám định hình ảnh trong hai đoạn video trích xuất từ camera an ninh của gia đình anh Trịnh Xuân Hùng và gia đình chị Đào Thị Ái, ghi lại một số hình ảnh liên quan đến vụ tai nạn giao thông.

Tại Kết luận giám định số 2211/KL-KTHS ngày 13/6/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- Không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh trong 02 (hai) tệp video của 02 (hai) USB gửi giám định.

- Tệp video “6157550737460974253.mp4” trong phong bì ký hiệu M1:

+ Tệp video ghi nhận hình ảnh trước khi vượt xe ô tô tải xe dạng xe mô tô (A) không va chạm với phương tiện nào.

+ Không xác định được tốc độ xe dạng mô tô: Do trong Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông không xác định chiều dài xe.

- Tệp video 18.15.00-18.20.00(M) (0@0)(0).day” trong phong bì kí hiệu M2:

+ Xe dạng xe mô tô (A) và xe dạng xe mô tô (B) di chuyển ngược chiều. Xe A và xe B di chuyển trên làn đường đánh số 1. Hai phương tiện va chạm trên làn đường đánh số 1 - Thể hiện trong Phụ lục.

Kèm theo Kết luận giám định có: 01 (một) Phụ lục gồm 10 (mười) ảnh trong 05 (năm) trang giấy khổ A4; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định.”.

Ngày 06/6/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện N ra Yêu cầu định giá tài sản đối với 02 chiếc xe mô tô liên quan đến vụ tai nạn giao thông.

Ngày 14/6/2023, Hội đồng định giá tài sản huyện N kết luận:

- Giá trị thiệt hại của xe mô tô nhãn hiệu Honda Supper Dream, màu nâu, mang BKS: 36F4- X do bà H1 điều khiển là 871.200đ;

- Giá trị thiệt hại của xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha, màu xanh đen bạc, BKS 36G1-X do H điều khiển là 3.110.500đ.

Về trách nhiệm dân sự: ông Phạm Duy B (đại diện hợp pháp của bị hại) yêu cầu Nguyễn Xuân H có trách nhiệm bồi thường tổng số tiền là 99.570.000đ, gồm: chi phí mai táng cho bà H1 là 49.570.000đ (Bốn mươi chín triệu năm trăm bảy mươi nghìn đồng); chi phí mua đất nghĩa địa 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng) và bồi thường tổn thất tinh thần cho ông B là 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng). Bà H1 không có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng ai nên gia đình không yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng.

Về thu giữ và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định:

- Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Supper Dream, màu nâu, mang BKS: 36F4- X do bà H1 điều khiển là tài sản của ông Phạm Duy B (chồng bà H1), ngày 13/7/2023, Cơ quan CSĐT đã trả lại chiếc xe trên cho ông B. Đối với giá trị thiệt hại của chiếc xe do tai nạn giao thông gây ra, ông B không yêu cầu H phải bồi thường;

- Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha, màu xanh đen bạc, BKS 36G1- X do H điều khiển là tài sản của chị Đào Thị T. Nguyễn Xuân H tự ý điều khiển xe mô tô BKS 36G1-X, chị T đi làm công ty nên không biết. Do chị T không có hành vi giao xe cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia giao thông đường bộ nên ngày 13/7/2023, Cơ quan CSĐT đã trả lại chiếc xe cho chị T.

Ngày 06/9/2023, gia đình bị cáo tự Ng bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 40.000.000đ; ngày 27/9/2023, gia đình bị cáo bồi thường tiếp 25.000.000đ, tổng cộng 65.000.000đ, số tiền còn lại 34.570.000đ, ông B yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường theo quy định; đồng thời ông B có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Xuân H theo cáo trạng số 24/CT- VKSNS, ngày 06/9/2023 về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H từ 30 đến 36 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do nên không áp dụng hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 260 của BLHS đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 591 của Bộ luật dân sự năm 2015, buộc bị cáo H có trách nhiệm bồi thường số tiền còn lại 34.570.000đ cho gia đình bị hại.

Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên xem xét miễn án phí HSST và án phí DSST cho bị cáo theo quy định * Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Nguyễn Xuân H có các quan điểm như sau:

- Về nguyên nhân, động cơ, mục đích dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng của người khác vì lỗi vô ý, chỉ vì sự chủ quan, không quan sát kĩ khi vượt, mà bị cáo đã va chạm với bà Mai Thị H1 và đã gây thiệt hại cho tính mạng của bà H1. Sau khi xảy ra sự va chạm với bị hại, bị cáo cũng bị thương rất nặng, nguy hiểm đến tính mạng, phải nằm điều trị một thời gian dài tại bệnh viện, bản thân bị cáo hiện tại chưa thể hồi phục sức khỏe như trước đây. Sau khi xảy ra sự việc trên, bị cáo đã thành người khuyết tật đặc biệt nặng.

- Xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, ý chí chủ quan của bị cáo không hề mong muốn sẽ thực hiện hành vi phạm tội đó. Mặc dù hậu quả đã xảy ra, là nằm ngoài ý chí chủ quan của bị cáo.

- Xét về nhân thân cũng như trách nhiệm của bị cáo khi sự việc xảy ra: Bị cáo sinh ra trong gia đình có hai anh em, bố đã chết, mẹ bị cáo một mình nuôi dưỡng 2 anh em của bị cáo, cuộc sống của gia đình hết sức khó khăn, là gia đình cận nghèo tại địa phương nhiều năm nay. Từ khi xảy ra sự việc, mẹ bị cáo một mình đi làm, chăm sóc cho bị cáo cũng như nuôi dạy em bị cáo, bị cáo và cùng gia đình bị cáo đã đến quan tâm, thăm hỏi và bồi thường khắc phục cho phía gia đình bị hại. Vì vậy, Trợ giúp viên đề nghị HĐXX cần xem xét đến hoàn cảnh, nhận thức của bị cáo để quyết định hình phạt cho bị cáo.

- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Từ khi xảy ra sự việc, bị cáo đã ý thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Việc bị cáo thể hiện sự ăn năn hối cải thể hiện ở việc bị cáo cùng gia đình đã khắc phục, bồi thường và xin lỗi đến với gia đình bị hại. Bị cáo cùng gia đình bị cáo đã khắc phục, bồi thường số tiền 65.000.000đ cho gia đình bị hại. Bị cáo là người khuyết tật đặc biệt nặng, đang hưởng trợ cấp hàng tháng của địa phương. Ngoài ra, gia đình bị hại cũng đã có đơn xin giảm nhẹ TNHS cho bị cáo nên đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, p, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS đối với bị cáo.

Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, trước khi vi phạm pháp luật lần này, bị cáo là sinh viên, với gia đình bị cáo là người con ngoan, người công dân tốt, luôn chấp hành quy định của địa phương và của pháp luật. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là không cần thiết, cũng thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật dành cho những người biết ăn năn hối cải, để bị cáo có thể cải tạo tại địa phương và hỗ trợ, giúp đỡ mẹ và gia đình.

Từ những quan điểm và phân tích như trên:

- Về trách nhiệm hình sự: đề nghị HĐXX áp dụng điểm a,b khoản 2 Điều 260;

các điểm s,b,p khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, Điều 54,Điều 65 BLHS 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” và đề nghị xử phạt bị cáo 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

- Về trách nhiệm dân sự:

Gia đình bị hại yêu cầu bồi thường với số tiền là 99.570.000 đồng và bị cáo đồng ý với mức bồi thường này. Bị cáo và gia đình đã tự Ng bồi thường số tiền là 65.000.000 đồng, đề nghị HĐXX tuyên bị cáo buộc phải bồi thường số tiền là 34.570.000 đồng cho gia đình bị hại

- Về án phí: Bị cáo là người thuộc hộ cận nghèo và bị cáo cũng đã có đơn xin miễn án phí. Do đó căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự và dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS và Trợ giúp viên pháp lý, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân H thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: Trưa ngày 28/02/2023, nhận được điện thoại của cậu ruột là Đào Văn Ng gọi đến nhà ăn cơm, H đã đồng ý. Tuy bị cáo không có giấy phép lái xe mô tô nhưng xe mô tô BKS 36 G1-X của bà Đào Thị T để ở nhà nên H đã tự điều khiển xe rời khỏi nhà đến nhà anh Ng ăn cơm, uống rượu bia, nồng độ cồn trong máu vượt quá quy định. Khoảng 17 giờ cùng ngày, H đi từ thị trấn về xã Nga Ph, đến km 200+900, quốc lộ 10B thuộc địa phận xã Nga Trung, do H vượt ẩu, lấn sang phần đường phía Đông, va chạm với xe mô tô do bà Mai Thị H1 điều khiển. Hậu quả, bà H1 tử vong do đa chấn thương.

Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 8, khoản 9 Điều 8; khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ và chịu trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 của BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: đây là vụ án có tính chất rất nghiêm trọng. Bị cáo phạm tội khi “ không có giấy phép lái xe theo quy định”; “trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định…”, thuộc trường hợp định khung hình phạt được quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 của BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm các quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm trực tiếp đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Khi gây tai nạn bản thân bị cáo cũng bị thương tích nặng (chấn thương sọ não và gãy 1/3 giữa xương đùi trái đã được nẹp vít) đi điều trị tại các cơ sở y tế, hiện tại sức khỏe vẫn chưa B phục hoàn toàn. Từ tháng 7/2023, bị cáo thuộc đối tượng bảo trợ xã hội và được hưởng chế độ người khuyết tật đặc biệt nặng. Gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, bố mất sớm, hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp khó khăn. Trước thời điểm phạm tội bị cáo là sinh viên đang theo học tại trường Cao đẳng y Hà Nội. Gia đình bị cáo H đã tự Ng bồi thường số tiền 65.000.000đ để khắc phục một phần hậu quả cho gia đình bị hại; đại diện gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Đại điện gia đình bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền là 99.570.000đ, bị cáo đồng ý. Gia đình bị hại đã nhận số tiền bồi thường từ gia đình bị cáo 65.000.000đ, số tiền còn lại là 34.570.000, buộc bị cáo có trách nhiệm thanh toán cho gia đình bị hại.

[5] Xét đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo H, HĐXX thấy rằng: trợ giúp viên pháp lý đề nghị xem xét về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo; về biện pháp chấp hành đề nghị cho bị cáo hưởng án treo và xem xét miễn án phí theo quy định cho bị cáo là có căn cứ nên được chấp nhận xem xét.Về hình phạt, Trợ giúp pháp lý đề nghị áp dụng cho bị cáo dưới khung là 24 tháng là chưa phù hợp với hành vi phạm tội dành cho bị cáo nên mức hình phạt Trợ giúp viên đề nghị là không được chấp nhận.

[6] Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy bị cáo Nguyễn Xuân H có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS, có nơi cư trú ổn định. Bản thân bị cáo đang được hưởng chế độ người khuyết tật đặc biệt nặng; gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố chết sớm; sức khỏe hiện tại chưa B phục hoàn toàn. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội nên áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân tốt, biết chấp hành pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do nên không áp dụng hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 260 của BLHS đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 591 của Bộ luật dân sự năm 2015, buộc bị cáo bồi thường số tiền còn lại 34.570.000đ cho gia đình bị hại.

[9] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân H có đơn xin miễn nộp tiền án phí Toà án và thuộc đối tượng hộ cận nghèo nên được xem xét miễn nộp tiền án phí HSST, án phí DSST theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật hình sự; Điều 591 của Bộ luật dân sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân H 36 (Ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 05 (Năm) năm, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Nga Ph, huyện N, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.).

* Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo H có trách nhiệm bồi thường số tiền còn lại 34.570.000đ cho gia đình bị hại.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

* Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì bị cáo Nguyễn Xuân H thuộc đối tượng hộ cận nghèo, được miễn nộp tiền án phí HSST và án phí DSST.

Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 26/2023/HS-ST về tội vi phạm quy định tham gia vi phạm quy định

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Như Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;