TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 13/2021/HSST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 29 tháng 01 năm 2021, Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Trần Thanh H, sinh ngày 16/02/2002, tại Bình Phước; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 1, ấp T, xã L, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Nghề nghiệp: Sửa chữa điện tử; trình độ văn hoá (học vấn) 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh N, sinh năm: 1974 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm: 1977; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không; Ngày 09/10/2020, có hành vi quy phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, đến ngày 12/11/2020 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã B khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại 1. Bùi Khánh V, sinh năm 2006 (đã chết) Hộ khẩu thường trú: Tổ 4, ấp S, xã P, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
2. Bùi Khánh L, sinh năm 2011 (vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Tổ 4, ấp S, xã P, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
Đại diện theo pháp luật của bị hại:
1. Bùi Khánh T, sinh năm 1982 (có mặt)
2. Vũ Thị D, sinh năm 1985 (vắng mặt có đơn)
Cùng địa chỉ: tổ 4, ấp S, xã P, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Lê Thị H, sinh năm 1975 (có mặt)
2. Lê Thị L, sinh ngày 16/5/2003 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Tổ 3, khu phố X, phường H, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
3. Trần Thanh N, sinh năm 1974 (có mặt)
4. Nguyễn Thị M, sinh năm 1977 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Tổ 1, ấp T, xã L, thị xã B, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 30 phút, ngày 09/10/2020, Trần Thanh H, sinh ngày 16/02/2002 (đã uống rượu, không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe mô tô Honda Vario150, dung tích 150 cm3, biển số 93E1-261.43 chạy trên đường Quốc lộ 13 theo hướng huyện Lộc Ninh đi thị xã B, với vận tốc khoảng 70-80 km/giờ. Khi đến đoạn đường thuộc tổ 03, ấp T, xã P, thị xã B, đoạn đường này có hướng cong về bên trái, lề đường bên phải có hệ thống đèn cảnh báo nguy hiểm màu vàng đang hoạt động; biển báo phía trước là trạm xe bus; biển báo phía trước là chỗ ngoặt nguy hiểm (biển số W.201a); Vạch chỉ dẫn sắp đến chỗ có bố trí vạch đi bộ qua đường (vạch 7.6); Vạch sơn giảm tốc màu trắng (vạch G2.9); Vạch sơn dành cho người đi bộ qua đường (vạch G.51) và biển cảnh báo giao nhau với đường không ưu tiên (biển W207a) các vạch trên đều được quy định trong Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN 41:2019/BGTVT do Bộ Giao thông vận tải ban hành ngày 31/12/2019 thì H vẫn không giảm tốc độ theo quy định. Cùng lúc này có Bùi Khánh V, sinh năm 2006 điều khiển xe đạp điện chở em ruột là Bùi Khánh L ngồi sau đang đi từ đường nhánh bên phải theo hướng xe H đang chạy ngang qua đường quốc lộ 13 sang bên trái, Huy không phanh mà điều khiển xe tránh qua làn đường dành cho ô tô con theo hướng Bình Long đi Lộc Ninh nhưng không kịp dẫn đến xe mô tô tông vào khung sườn bên trái xe đạp điện gây ra vụ tai nạn giao thông làm Bùi Khánh V chết, Bùi Khánh L bị thương tích nhẹ.
Kết quả kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở đối với Trần Thanh H sau vụ tai nạn là 0,560mg/01 lít khí thở.
Tại Biên bản khám nghiệm, bản ảnh, sơ đồ hiện trường; Biên bản khám nghiệm phương tiện thể hiện:
Chọn trụ điện số 151B nằm bên lề phải của đường Quốc lộ 13 tính theo hướng từ thị xã B đi huyện Lộc Ninh làm điểm mốc chuẩn; Chọn mép trái đường Quốc lộ 13 theo hướng huyện lộc Ninh đi thị xã B làm mép đường chuẩn.
Đoạn đường Quốc Lộ 13 thuộc tổ 03, ấp T, xã P, thị xã B là đoạn đường cong, mặt đường trải nhựa bằng phẳng, không có chướng ngại vật, tầm nhìn không bị hạn chế, không bị che khuất, ánh sáng tự nhiên. Đặc điểm:
- Bên phải đường có: Hệ thống đèn cảnh báo nguy hiểm màu vàng đang hoạt động nhấp nháy; Có biển cảnh báo nguy hiểm phía trước là chỗ ngoặt nguy hiểm, biển báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên; Có biển báo trạm xe bus; Trên mặt đường có vạch sơn báo hiệu phía trước có vạch sơn dành cho người đi bộ qua đường, vạch sơn báo hiệu giảm tốc độ, có vạch sơn dành cho người đi bộ qua đường.
- Đường nhánh bên trái là đường bê tông rộng 2,9m, đường nhánh bên phải là đường bê tông rộng 3,0m, có biển báo hiệu giao thông giao nhau với đường ưu tiên.
- Xe mô tô biển số 93E1-261.43 sau tai nạn xe ngã qua trái, đầu xe quay hướng thị xã B, đuôi xe hướng về huyện Lộc Ninh, trục bánh trước cách mép đường 4,6m, trục bánh sau cách mép đường 4,15m.
- Xe đạp điện sau tai nạn ngã qua phải nằm trên mặt đường nhựa, đầu xe quay về hướng lề trái, đuôi xe hướng về lề phải. Trục bánh trước cách mép đường 3,43m, trục bánh sau cách mép đường 4,77m và cách trục bánh trước xe mô tô hướng về thị xã B 2,9m.
- Vết cày 1 dài 0,15 m nằm trên làn đường dành cho xe ô tô con theo hướng về thị xã B, điểm đầu cách mép đường chuẩn là 9,13m, điểm cuối cách mép đường chuẩn là 9,0m, cách mép đường nhánh nối dài qua mặt đường Quốc lộ 13 là 1,3m.
- Vết cày 2, 3, 4 có điểm đầu và điểm cuối nằm trên làn đường dành cho xe ô tô con theo hướng thị xã B đi huyện Lộc Ninh.
- Các vết cày 5, 6 không liên tục, điểm đầu nằm trên làn đường xe ô tô tải theo hướng thị xã B đi huyện Lộc Ninh, điểm cuối trùng với xe mô tô.
- Vùng mảnh vỡ 12 có kích thước 18x6,5m, chủ yếu nằm trên làn đường dành cho xe ô tô con, tâm cách mép đường là 8m, cách điểm cuối vết cày 4 về hướng thị xã B 5m - Vết máu 8 nằm trên làn đường dành cho xe ô tô tải theo hướng thị xã B đi huyện Lộc Ninh -Vết cày 13 không liên tục nằm trên làn đường dành cho xe ô tô con theo hướng thị xã B đi huyện Lộc Ninh, dài 10,1m, điểm đầu cách mép đường 7,97m, điểm cuối cách mép đường 6,1m.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 278/2020/GĐPY ngày 12/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước kết luận: “Bùi Khánh V, sinh năm 2006 bị chấn thương sọ não gây vỡ xương sọ, xuất huyết nội sọ dẫn đến tử vong”.
Cáo trạng số: 02/CT-VKS ngày 06/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã B truy tố Trần Thanh H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng, căn cứ tính chất mức độ phạm tội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự; tuyên bố bị cáo phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả, gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ và tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Thanh H từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã B, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân thị xã B, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện về thời gian, địa điểm, phù hợp với các tài liệu chứng cứ, vật chứng có trong hồ sơ vụ án đã thu thập được. Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 09/10/2020, bị cáo đã uống rượu và không có giấy phép lái xe nhưng vẫn điều khiển xe mô tô với vận tốc khoảng từ 70km/giờ đến 80km/giờ trên đoạn đường quốc lộ 13 theo hướng huyện Lộc Ninh đi thị xã B đến khu vực thuộc tổ 3, ấp T, xã P, thị xã B; đoạn đường này có hướng cong về bên trái, lề đường bên phải có hệ thống đèn cảnh báo nguy hiểm màu vàng đang hoạt động; biển báo phía trước là trạm xe bus; biển báo phía trước là chỗ ngoặt nguy hiểm, vạch chỉ dẫn sắp đến chỗ có bố trí vạch đi bộ qua đường, vạch sơn giảm tốc màu trắng, vạch sơn dành cho người đi bộ qua đường và biển cảnh báo giao nhau với đường không ưu tiên nhưng bị cáo vẫn không giảm tốc độ theo quy định. Do đang chạy nhanh, bị cáo không phanh xe mà điều khiển xe tránh qua làn đường dành cho xe ô tô con chạy theo hướng ngược lại và tông vào xe đạp điện do cháu Bùi Khánh V đang điều khiển chở cháu Bùi Khánh L đang đi từ đường nhánh bên phải theo hướng xe bị cáo đang chạy để rẽ trái sang đường làm cháu Bùi Khánh V chết, cháu Bùi Khánh L bị thương tích. Nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông là do bị cáo đã uống rượu có nồng độ cồn vượt mức quy định, không có giấy phép lái xe và điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 8, 9 và 11 Điều 8; khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ. Đủ yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật giao thông đường bộ, xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự và an toàn giao thông, là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Việc điều khiển xe dung tích 150cm3, không có giấy phép lái xe và có nồng độ cồn vượt mức quy định là nguy hiểm cho người tham gia giao thông khác, đoạn đường này thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông cần xử phạt tù để có tính răn đe, giáo dục chung trong tình hình giao thông hiện nay.
[4] Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo; bị cáo tác động gia đình tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ và tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không co tinh tiêt tăng năng.
[5] Đối với vật chứng của vụ án:
- Xe mô tô Honda Vario150, dung tích 150 cm3, biển số 93E1-261.43 là tài sản của Lê Thị H. Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý trả lại xe cho chị H là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét. Chị H không yêu cầu bị cáo bồi thường việc xe Honda bị thiệt hại nên không xem xét.
- Xe đạp điện do cháu Bùi Khánh V điều khiển là tài sản của ông Bùi Khánh T, Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng trả lại xe cho ông Bùi Khánh T (cha ruột cháu Vân). Ông T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
[6] Vê măt dân sư:
Bị cáo đã tác động, nhờ cha mẹ ruột là ông Trần Thanh N, bà Nguyễn Thị M thỏa thuận và bồi thường cho cha mẹ ruột cháu Bùi Khánh V là ông Bùi Khánh T, bà Vũ Thị D số tiền 182.000.000đ (một trăm tám mươi hai triệu đồng). Ông Thịnh, Bà D không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Ông N, bà M không yêu cầu bị cáo trả lại tiền bồi thường nên không xem xét.
[7] Những vấn đề liên quan:
Đối với Lê Thị H, Lê Thị L cho bị cáo Trần Thanh H mượn xe nhưng không biết việc bị cáo chưa có giấy phép lái xe nên không xử lý.
Cháu Bùi Khánh L, sinh ngày 26/9/2011 sau khi bị tai nạn chỉ bị thương tích nhẹ, gia đình đã từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
[8] Kiểm sát viên đề nghị hình phạt tù cho bị cáo là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[ 9] Về án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Thanh H phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 260; Điều 38; Điều 50; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Thanh H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, tính từ ngày thi hành án.
Án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, đại diện theo pháp luật của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện theo pháp luật của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 13/2021/HSST
Số hiệu: | 13/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về