TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B
BẢN ÁN 104/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Trong ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 94/2022/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2022/QĐXXST-HS ngày 08/6/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 18 đối với bị cáo:
Mã Văn H, sinh năm 1989; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; Nơi cư trú: Thôn Ngầu 1, xã Hùng Mỹ, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 9/12 ; Họ và tên cha: Mã Văn D, sinh năm 1968 (đã chết); họ và tên mẹ: Hoàng Thị H, sinh năm 1967 ; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con cả ; Vợ: Lô Thị T, sinh năm 1992; Có 01 con sinh năm 2013.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo hiện tại ngoại (Có mặt tại phiên toà)
* Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Vi Thị S, sinh năm 1980 Trú tại: Thôn Đồng Cà, xã Khôi Kỳ, huyện Đại Từ, tỉnh TN (Vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Lô Thị T, sinh năm 1992, trú tại: Thôn Ngầu 1, xã Hùng Mỹ, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang
- Ông Vũ Huy T, sinh năm 1966, trú tại: Tổ dân phố Kim Sơn, thị Trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh B.
- Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1979, trú tại: Thôn Dục Quang, thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên, tỉnh B
- Chị Ngô Mai H, sinh năm 2006, trú tại: Thôn Dục Quang, thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên, tỉnh B
Người đại diện hợp pháp của chị H: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1979, trú tại: Thôn Dục Quang, thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên, tỉnh B.
(Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Vũ Huy T, sinh năm 1966 ở tổ dân phố Kim Sơn, thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang là chủ sở hữu chiếc xe ô tô BKS 98C-086.98. Ông T thuê Mã Văn H, sinh năm 1989 ở thôn Ngầu 1, xã Hùng Mỹ, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang làm lái xe chuyên chở đất, đá, sỏi để san lấp các công trình trên địa bàn tỉnh B. H có giấy phép lái xe ô tô hạng C số 220117001055 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 20/6/2020.
Ngày 11/01/2022, H điều khiển xe ô tô BKS 98C-086.98 chở đất, đá, sỏi từ thị trấn Kép, huyện Lạng Giang đến công trình san lấp mặt bằng đường đô thị phía Nam thành phố B tại tổ 4, phường Mỹ Độ, thành phố B, tỉnh B. Khoảng 15 giờ 15 phút cùng ngày, H điều khiển xe ô tô BKS 98C-086.98 đi trên đường Thân Nhân Trung, phường Mỹ Độ hướng đi huyện Việt Yên. Khi đi đến lối rẽ trái vào công trình san lấp mặt bằng đường đô thị phía Nam thành phố B, H quan sát phía trước có cháu Hoàng Thị Thu Th, sinh năm 2009 ở thôn Đồng Cà, xã Khôi Kỳ, huyện Đại Từ, tỉnh TN điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Dibao, màu sơn trắng- xám, không có BKS đi trên đường Thân Nhân Trung theo hướng ngược chiều di chuyển với xe ô tô của H, cách xe ô tô của H khoảng 20m. Lúc này, H nghĩ cháu Th sẽ dừng lại nhường đường nên H điều khiển xe ô tô rẽ trái để di chuyển vào công trình san lấp mặt bằng đường đô thị phía Nam thành phố B. Quá trình chuyển hướng rẽ trái, do không nhường đường cho cháu Th, không chú ý quan sát để đảm bảo an toàn nên xe ô tô của H đã va chạm với xe máy điện do cháu Th điều khiển. Sau khi xảy ra va chạm, xe máy điện của cháu Th bị đổ ra đường, cháu Th bị ngã sang phía bên phải và bị bánh sau bên phải xe ô tô BKS 98C-086.98 đè qua người. Hậu quả cháu Th bị T nặng, được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh B nhưng khi đến bệnh viện thì cháu Th đã bị chết.
Sau khi tai nạn xảy ra, Cơ quan điều tra đã tiến hành đưa người và pH tiện về trụ sở làm việc. Tiến hành kiểm tra xác định H không sử dụng ma túy và các chất kích thích khác, không có nồng độ cồn trong hơi thở. Tiến hành kiểm tra trọng lượng của xe ô tô tải biển kiểm soát: 98C - 086.98, kết quả vượt quá khối lượng hàng hóa chuyên chở cho phép tham gia giao thông là 202.12% (34360kg/17000kg).
* Kết quả khám nghiệm hiện trường:
Hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn là đường Thân Nhân Trung, thuộc địa phận tổ 4, phường Mỹ Độ, thành phố B, tỉnh B. Bên phải đường Thân Nhân Trung hướng từ huyện Việt Yên đi cầu Mỹ Độ là lối rẽ vào công trường đang thi công đường Khu đô thị phía Nam thành phố B sát cạnh Trường tiểu học Minh Khai, Bên trái đường Thân Nhân Trung là lối rẽ vào làn 2 đường Thân Nhân Trung.
Chọn điểm mốc là cột đèn đường đặt trên mép phải đường Thân Nhân Trung theo chiều từ huyện Việt Yên đi cầu Mỹ Độ, cột đèn số 144. Chọn mép phải đường Thân Nhân Trung tính từ huyện Việt Yên, đi cầu Mỹ Độ làm chuẩn.
Đường Thân Nhân Trung là đường thẳng, hai chiều, có mặt đường trải nhựa bằng phẳng rộng 21m, vạch tim đường đứt quãng màu vàng, chia đường thành hai chiều đường xe chạy ngược chiều, mỗi chiều đường có các vạch sơn đứt quãng màu trắng, chia mặt đường thành 6 làn xe chạy, kích thước các làn theo chiều từ huyện Việt Yên đi cầu Mỹ Độ lần lượt là 3,5m; 3,5m; 3,5m; 4m; 3,5m và 3m.
Xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98 đỗ trên mặt đường, đầu xe chếch hướng Tây Nam, tâm trục bánh trước bên phải cách mép đường phải 7,3m, cách cột đèn số 144 là 26,4m, tâm trục bánh sau bên phải cách mép đường phải 1,2m.
Xe máy điện không biển kiểm soát nằm nghiêng trái trên mặt đường, đầu xe hướng Bắc, tâm trục bánh sau cách tâm trục bánh sau bên phải xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98 là 3,9m, cách mép đường phải 2,6m, tâm trục bánh trước cách mép đường phải 3,8m.
Dấu vết mài trượt mặt đường màu đen, ký hiệu số 3, hướng Tây Bắc - Đông Nam, kích thước (2,7 x 0,05)m, điểm đầu vết cách tâm trục bánh sau xe máy điện không biển kiểm soát 3,25m, cách mép đường phải 2,1m, điểm cuối vết cách tâm trục bánh sau xe máy điện 01m, cách mép đường phải 1,75m.
Dấu vết cày xước mặt đường dạng đứt quãng, ký hiệu số 4, hướng Tây Bắc - Đông Nam, kích thước (3,1 x 0,60)m, điểm đầu vết cách điểm đầu vết mài trượt mặt đường ký hiệu số 3 là 1,2m, cách mép đường phải 2,2m, điểm cuối vết cách tâm trục bánh sau xe máy điện không biển kiểm soát 1,15m, cách mép đường phải 2,3m.
Dấu vết cày xước mặt đường dạng đứt quãng, ký hiệu số 5, hướng Đông Nam - Tây Bắc, kích thước (01 x 0,35)m, điểm đầu vết cách điểm cuối vết cày xước mặt đường ký hiệu số 4 là 0,4m, cách mép đường phải 2,45m.
Dấu vết màu nâu đỏ và tổ chức mô cơ thể người, ký hiệu số 6, dạng loang, tia bắn hướng Đông Bắc - Tây Nam, kích thước (03 x 2,5)m, tâm yết cách điểm cuối dấu vết cày xước mặt đường ký hiệu số 4 là 0,7m, cách mép đường phải 2,4m.
Dấu vết mài trượt mặt đường, in hình vân lốp, bám dính chất màu nâu đỏ, ký hiệu số 7, trên diện (0,6 x 0,5)m, hướng Đông Bắc - Tây Nam, điểm đầu vết cách tâm trục bánh sau bên phải xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98 là 0,9m, cách mép đường phải 0,45m, điểm cuối vết cách tâm trục bánh sau bên phải xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98 là 0,3m, cách mép đường phải 0,95m.
* Kết quả khám nghiệm xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98:
Mặt ngoài ốc vít la zăng trục bánh thứ II bên phải có vết trượt xước kim loại, sạch bụi đất, bám dính chất màu đen, trên diện (2,1 x 1,6)cm, điểm gần nhất cách chân van 15,6cm.
Má ngoài lốp trục bánh thứ II bên phải tại vị trí số “25” trong hàng chữ “12R22.5” có vết rách, mài sát cao su, sạch bụi đất, hướng ngược chiều chuyển động tiến; Mặt ngoài vành tại vị trí tương ứng có vết lõm, trượt xước kim loại, kích thước (17 x 12)cm, trong vị trí này có vết lõm, kích thước (0,3 x 0,3)cm.
Mặt ngoài thanh kim loại phía dưới bảo vệ bên phải bình dầu có vết trượt xước sơn, kim loại, sạch bụi đất, bám dính chất màu đen (dạng cao su), trên diện (14 x 4,6) cm, điểm gần nhất cách đầu thanh kim loại 26,5cm, cách đất 43,3cm.
Mặt lăn, má lốp bánh ngoài trục bánh thứ III bên phải có vết trượt xước cao su, đất, bám dính chất màu nâu đỏ, chất màu vàng dạng tổ chức cơ thể người trên diện (19 x 12)cm, điểm gần nhất cách chữ “R” trong hàng chữ “RADIAL” 6,8cm, hướng ngược chiều kim đồng hồ.
Mặt lăn và má lốp ngoài trục bánh thứ IV bên phải bám dính chất màu nâu đỏ dạng tổ chức mô cơ thể người, trên diện (60 x 42)cm, điểm gần nhất cách số “12” trong hàng chữ “12.00R20” là 16cm.
* Kết quả khám nghiệm xe máy điện nhãn hiệu Dibao, màu sơn trắng- xám, không biển kiểm soát:
Mặt trong, dưới tay phanh bên phải có vết trượt xước kim loại, bám dính bụi đất, trên diện (07 x 0,4)cm, điểm thấp nhất cách đất 48cm ở tư thế đổ nghiêng trái.
Mặt trước, ngoài đầu tay nắm bên phải có vết trượt xước cao su, kim loại, bám dính bụi đất, trên diện (4,6 x 3,3)cm, điểm thấp nhất cách đất 45cm ở tư thế đổ nghiêng trái.
Mặt ngoài giảm sóc trước bên phải và cụm chi tiết cố định có vết trượt xước kim loại, sạch bụi đất, bám dính chất màu đen và màu ghi, trên diện (21 x 06)cm, tương ứng tại vị trí cách đất 21cm có vết lõm, trượt xước kim loại, bám dính chất màu ghi, kích thước (0,4 x 0,3)cm.
Vành bánh trước bên phải có vết trượt xước, mòn kim loại, hướng cùng chiều kim đồng hồ, kích thước (02 x 0,4)cm, điểm gần nhất cách chữ “N” trong hàng chữ “ROTATTION” là 2,6cm.
Đầu ngoài tay phanh bên trái có vết trượt xước, mòn, kim loại, bám dính chất màu trắng (dạng bột đá), kích thước (1,8 x 1,3)cm.
Gãy khuyết đầu tay nắm bên trái, phần kim loại còn lại có vết trượt xước kim loại, hướng từ trước ra sau, kích thước (02 x 0,4)cm.
Mặt ngoài cánh yếm trái có vết trượt xước sơn, nhựa, hướng từ trước ra sau, mặt ngoài bám dính đất, trên diện (40 x 3,3)cm.
Gãy khuyết để chân sau bên trái.
Cạnh ngoài bên trái chân chống giữa có vết trượt xước kim loại, bám dính chất màu trắng (dạng bột đá), trên diện (14,5 x 1,9)cm.
Đầu thanh kim loại bảo vệ bên trái yên xe có vết mài xước kim loại, bám dính chất màu trắng (dạng bột đá), kích thước (6,8 x 0,7)cm.
* Kết quả khám nghiệm tử thi Hoàng Thị Thu Th:
Chiều dài tử thi 132cm, thể tạng phát triển bình thường đang trong giai đoạn cứng xác. Vùng đầu: Tóc đen, hai mắt khép kín, các hố tự nhiên khô, kiểm tra vùng đầu, cổ, ngực, hai chi không phát hiện tổn T.
Vùng bụng phải có vết mài xát da hướng từ trước ra sau, từ trái sang phải kích thước (26x16)cm, dập nát toàn bộ vùng tầng sinh môn, bẹn, đùi hai bên.
Chân phải đứt rời không hoàn toàn, đùi phải tại vị trí sát xương chậu, tổ chức cơ xương dập nát gẫy rời nhiều mức độ khác nhau.
Mặt trước trong gối trái có vết xây xước da kích thước (5,5x3)cm. Vùng thắt lưng hai bên và mông trái có in hình hoa văn dạng các hình lục giác đều liên tiếp nhau kích thước 01 cạnh là 4cm, khoảng cách hai khoảng đối nhau là 7cm.
Mổ tử thi: Kiểm tra tổn T vùng bẹn, đùi phải thấy dập nát tổ chức cơ, gãy hở xương chậu hai bên, dập nát động tĩnh mạch đùi phải ở nhiều mức độ khác nhau.
Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định nguyên nhân chết của cháu Hoàng Thị Thu Th và cơ chế hình thành dấu vết của vụ tai nạn giao thông.
Bản kết luận số 272/KL-KTHS ngày 11/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận: Nguyên nhân chết của cháu Hoàng Thị Thu Th do sốc đa chấn T: Đứt rời đùi phải, gãy hở xương chậu hai bên (bút lục 41-42).
Bản kết luận số 360/KL-KTHS ngày 06/03/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận:
1. Dấu vết trượt xước kim loại, cao su tại vị trí ốc vít la zăng và má lốp trục bánh trục thứ II (tính từ trước ra sau) của xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98 phù hợp với dấu vết trượt xước kim loại, sạch bụi đất, bám dính chất màu đen và màu ghi tại vị trí giảm sóc trước bên phải và bên phải vành bánh trước của xe máy điện không biển kiểm soát.
Dấu vết trượt xước sơn, kim loại, sạch bụi đất, bám dính chất màu đen tại vị trí mặt ngoài thanh kim loại phía dưới bảo vệ bên phải bình dầu của xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98 phù hợp với dấu vết trượt xước cao su, kim loại, bám dính bụi đất tại vị trí đầu tay nắm và tay phanh bên phải của xe máy điện không biển kiểm soát.
2. Dấu vết mài trượt màu đen ký hiệu số 3 và dấu vết cày xước ký hiệu số 4 phù hợp với quá trình xe máy điện không biển kiểm soát phanh, đổ nghiêng trái, rê trượt trên mặt đường tạo nên.
3. Vị trí va chạm giữa xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98 và xe máy điện không biển kiểm soát trên mặt đường tại điểm cuối dấu vết cày xước ký hiệu số 4, thuộc làn đường ngoài cùng bên phải, theo hướng huyện Việt Yên - cầu Mỹ Độ.
4. Chiều hướng va chạm: tại thời điểm xảy ra tai nạn xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98 chuyển động chếch chéo từ phải sang trái va chạm với xe máy điện không biển kiểm soát chuyển động nghiêng, đổ ở bên phải xe ô tô biển kiểm soát 98C - 086.98.
5. Không đủ cơ sở để xác định tốc độ của hai pH tiện trước khi xảy ra va chạm qua dấu vết cơ học.
Đối với hành vi điều khiển xe ô tô tải chở hàng vượt trọng tải cho phép khi tham gia giao thông của Mã Văn Hiền đã vi phạm quy định tại điểm b, khoản 8, Điều 24, Nghị định 100, ngày 30/12/2019 “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt” nên cần xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.
Đối với chiếc xe ô tô BKS 98C-086.98, quá trình điều tra xác định là tài sản của ông Vũ Huy T, ông T mua lại chiếc ô tô trên của anh Nguyễn PH Trung, sinh năm 1986 ở thôn Quyết Tiến, xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng.
Đối với chiếc xe máy điện nhãn hiệu Dibao, màu sơn trắng- xám không có BKS là tài sản của chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1979 ở thôn Dục Quang, thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên. Chị S mua chiếc xe trên cho con gái là cháu Ngô Mai H, sinh năm 2006 để cháu H đi lại. Sau đó cháu H cho Th mượn. Đối với hư hỏng của chiếc xe máy điện do tai nạn, chị S không có yêu cầu, đề nghị gì.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Mã Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố Mã Văn H khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; sau khi tai nạn xảy ra bị cáo H đã bồi thường cho gia đình nạn nhân Th 200.000.000 đồng và được bà Vi Thị Sinh là mẹ cháu Th có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.
Về trách nhiệm dân sự: Mã Văn H đã tự nguyện bồi thường cho gia đình cháu Hoàng Thị Thu Th số tiền 200.000.000 đồng. Chị Vi Thị Sinh, sinh năm 1980 (mẹ cháu Th) là đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu bồi thường thêm.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra trả lại ông T chiếc xe ô tô BKS 98C- 086.98 kèm theo giấy tờ xe gồm: 01 đăng ký xe ô tô số 034885 do phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh B cấp ngày 11/6/2018; 01 Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường pH tiện giao thông cơ giới đường bộ, số 8468461; 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm ô tô số 5492093. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy điện nhãn hiệu Dibao, màu sơn trắng- bạc, không có BKS cho chị S.
Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng C, số 220117001055 của Mã Văn H và tổ chức mô cơ thể tại mặt lăn bánh sau bên phải (quy ước là bánh số 4, tính theo chiều từ đầu xe đến đuôi xe) xe ô tô biển số 98C- 086.98, được niêm phong dán kín được nhập kho vật chứng theo quy định.
Tại Cơ quan điều tra, Mã Văn H đã khai nhận hành vi như nêu trên.
Tại Cáo trạng số 96/CT-VKS ngày 27/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, truy tố bị cáo Mã Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, bị cáo Mã Văn H khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên. Đại diện hợp pháp của bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nhưng có lời khai trong hồ sơ với nội dung như cáo trạng nêu trên.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử như sau:
1. Về tội danh và hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mã Văn H từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Hùng Mỹ, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho bị cáo 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng C, số 220117001055 của Mã Văn H - Tịch thu tiêu hủy tổ chức mô cơ thể tại mặt lăn bánh sau bên phải (quy ước là bánh số 4, tính theo chiều từ đầu xe đến đuôi xe) xe ô tô biển số 98C-086.98.
3. Án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
* Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, cảm thấy rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, tuy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về sự có mặt của đương sự: Đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ nên căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt.
[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của đại diện bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, sơ đồ hiện trường, kết quả khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 15 phút ngày 11/01/2022, tại đoạn đường Thân Nhân Trung, thuộc tổ dân phố số 4, phường Mỹ Độ, thành phố B, Mã Văn H điều khiển xe ô tô BKS 98C-086.98, trên xe có chở đất, đá, sỏi di chuyển theo hướng phường Mỹ Độ đi huyện Việt Yên. Khi H điều khiển xe ô tô rẽ trái để di chuyển vào công trình san lấp mặt bằng đường đô thị phía Nam thành phố B, do không nhường đường khi chuyển hướng, chuyển hướng không đảm bảo an toàn nên xe ô tô H điều khiển va chạm với xe máy điện nhãn hiệu Dibao, không có BKS do cháu Hoàng Thị Thu Th điểu khiển, hậu quả làm cháu Th bị chết. Hành vi của Mã Văn H đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật Giao thông đường bộ và đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ, hành vi: Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm an toàn, sự hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường bộ, trật tự công cộng mà còn gây nguy hiểm cho tính mạng, tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự, cần buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội bị cáo gây ra để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.
[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, sau khi phạm tội đã bồi thường khắc phục hậu quả, đại diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và không không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
[6] Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, sau khi phạm tội đã tự nguyện khắc phục hậu quả, thực sự khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải, được đại diện bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần bắt bị cáo chịu hình phạt tù, cho hưởng án treo thì bị cáo cũng có thể tự cải tạo, không gây nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 200.000.000 đồng. Đại diện bị hại không có yêu cầu, đề nghị nào khác, nên không đặt ra giải quyết.
[8] Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho bị cáo 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng C, số 220117001055 của Mã Văn H - Tịch thu tiêu hủy tổ chức mô cơ thể tại mặt lăn bánh sau bên phải (quy ước là bánh số 4, tính theo chiều từ đầu xe đến đuôi xe) xe ô tô biển số 98C-086.98, được niêm phong dán kín được nhập kho vật chứng theo quy định.
[9] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo là phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự;
Căn cứ điểm c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106, Điều 292, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí; Xử:
1. Về tội danh và hình phạt: Xử phạt bị cáo Mã Văn H 01 năm 06 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Hùng Mỹ, huyện CH, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Bộ luật hình sự.
2. Về vật chứng:
2.1. Trả lại cho bị cáo 01 Giấy phép lái xe ô tô hạng C, số 220117001055 của Mã Văn H
2.2 Tịch thu tiêu hủy tổ chức mô cơ thể tại mặt lăn bánh sau bên phải (quy ước là bánh số 4, tính theo chiều từ đầu xe đến đuôi xe) xe ô tô biển số 98C- 086.98, được niêm phong dán kín được nhập kho vật chứng theo quy định.
3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mã Văn H.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.
5. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 104/2022/HS-ST
Số hiệu: | 104/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về