Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 10/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 09/03/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 09 tháng 3 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2023/TLST-HS, ngày 05 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2023/QĐXXST-HS, ngày 12/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đối với bị cáo:

Họ và tên: Lâm Lâm H, sinh ngày 01/01/2000, tại thị xã C. Nơi cư trú: khóm X, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Khmer; tôn giáo: không; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông: Lâm Th và bà Triệu Thị N; Vợ, con: chưa có: tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 26/4/2022 cho đến nay (bị cáo có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Triệu Du Ng - Luật sư trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ: số 98 đường Hùng Vương, Phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Người bị hại: Ông Tăng Suôl, sinh năm 1943 (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

1. Bà Lý Thị L, sinh năm 1943. Nơi cư trú: khóm Sở T, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng. Là vợ bị hại (vắng mặt).

2. Ông Tăng Kh, sinh ngày 15/01/1969. Nơi cư trú: ấp Tham C, xã Vn, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng. Là con bị hại (có mặt).

3. Ông Tăng K, sinh ngày 05/5/1972. Nơi cư trú: khóm Sở T, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng. Là con bị hại (có mặt).

4. Ông Tăng K1, sinh năm 1975. Nơi cư trú: khóm Sở T, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng. Là con bị hại (vắng mặt).

5. Ông Tăng K2, sinh ngày 01/01/1978. Nơi cư trú: khóm T, phường Vĩ, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng. Là con bị hại (có mặt).

6. Ông Tăng Sóc K3, sinh ngày 28/10/1980. Nơi cư trú: ấp 2, xã P, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Là con bị hại (có mặt).

7. Bà Tăng Thị Hoa R, sinh ngày 26/4/1987. Nơi cư trú: khóm Sở T, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng. Là con bị hại (có mặt).

8. Bà Tăng Thị Hòa R, sinh ngày 01/10/1990. Nơi cư trú: khóm Sở T, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng. Là con bị hại (có mặt).

9. Ông Tăng K4, sinh ngày 30/9/1968. Nơi cư trú: Y Mart.St. Noth Melbourne Vic X (Australia). Là con bị hại (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền cho các ông, bà Lý Thị L, Tăng Kh, Tăng K, Tăng K1, Tăng K2, Tăng Sóc K3, Tăng Thị Hoa R, Tăng K4: Bà Tăng Thị Hòa R, sinh ngày 01/10/1990. Nơi cư trú: khóm Sở T, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Lâm Th, sinh năm 1976. Nơi cư trú: khóm Xẽo M, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

2/ Bà Triệu Thị N, sinh năm 1977. Nơi cư trú: khóm Xẽo M, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Bà Trần Thị Mỹ L, sinh năm 1962. Nơi cư trú: khóm Sở T, phường V, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Người phiên dịch: Bà Sơn Hồng V – nguyên cán bộ báo Sóc Trăng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 20 phút ngày 08/2/2022 bị cáo Lâm Lâm H điều khiển xe mô tô mang biển số kiểm soát 83P3-xxxxx chở theo Đặng Duy T lưu thông trên Quốc lộ Nam Sông Hậu theo hướng phường 1, thị xã C về phường V, thị xã C, khi điều khiển thì bị cáo cho xe lấn sang phần đường bên trái để vượt lên xe tải đang đi cùng chiều phía trước, trong lúc đang vượt thì xe mô tô của bị cáo đang điều khiển dụng vào người ông Tăng Suôl đang đứng cập lộ bên trái theo hướng xe của bị cáo đi. Hậu quả làm ông Tăng Suôl tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 44/KLGĐPY-KTHS ngày 22/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng, kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Trên cơ thể nạn nhân có nhiều vết thương. Bầm tụ máu dưới da đầu ở vùng chẩm hai bên và đỉnh bên trái. Tụ máu trong cơ thái dương bên phải. Họp sọ bị nứt không rõ hình ở vùng thái dương bên phải. Màng cứng căng phồng. Bầm tụ máu hoàn toàn bán cầu đại não bên phải.

- Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não.

Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra có tạm giữ: 01 chiếc xe mô tô mang biển số kiểm soát 83P3-xxxxx và 01 giấy đăng ký xe mang biên số 83P3-xxxxx do ông Lâm Th đứng tên.

Về trách nhiệm dân sự: người đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường các khoảng chi phí tổn thất tinh thần và mai táng phí 225.402.000đ, bị cáo đến cơ quan điều tra nộp 1.000.000 đồng khắc phục hậu quả.

Tại Cáo trạng số 02/CT-VKS-P2 ngày 03 tháng 01 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng để xét xử đối với bị cáo Lâm Lâm H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng giữ quyền công tố Nhà nước sau khi phát biểu luận tội và tranh luận. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Cáo trạng số 02/CT-VKS-P2, ngày 03/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng và tuyên bố bị cáo Lâm Lâm H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và trong quá trình điều tra mẹ bị cáo tự nguyện nộp 1.000.000 đồng bồi thường một phần thiệt do bị cáo gây ra; bị cáo là người dân tộc khmer có trình độ học vấn thấp, có ông nội là người có công với cách mạng. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) tuyên phạt bị cáo từ 04 đến 05 năm tù.

Về vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lâm Th chiếc xe và giấy tờ xe mang biển số 83P3-xxxxx.

Về trách nhiệm dân sự: ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo và đại diện hợp pháp bị hại, buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền 225.402.000 đồng, khấu trừ 1.000.000 đồng đã nộp trước.

Về án phí đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

Người bảo chữa cho bị cáo trình bày: Luật sư thống nhất với tội danh và khung hình phạt đối với bị cáo không trình bày gì thêm. Chỉ phân tích về các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như trước khi phạm tội bị cáo có nhân dân tốt, không tiền án, tiền sự. Bị cáo là người làm thuê để sinh sống nhưng không mai ngày xảy ra sự việc bị cáo đã lấy xe của cha bị cáo chạy lưu thông trên đường thì gây tai nạn. Sau khi phạm tội bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo cũng đến đốt nhang và có nộp số tiền 1.000.000 đồng cho cơ quan điều tra để khắc phục phần nào hậu quả cho phía bị hại. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo cũng đã biết lỗi của mình tỏa ra ăn năn hối cải và gửi lời xin lỗi đến gia đình của bị hại. Về trách nhiệm dân sự bị cáo cũng đã đồng ý bồi thường toàn bộ số tiền theo yêu cầu gia đình bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận; về án phí do bị cáo là người dân tộc khmer sống ở xã có điều kiện kinh tế khó khăn nên bị cáo có đơn xin miễn toàn bộ án phí. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm mức án cho bị cáo với mức thấp nhất mà vị kiểm sát viên đã đề nghị.

Bị cáo không trình bày bổ sung gì.

Người đại diện hợp pháp bị hại bà Tăng Thị Hòa R trình bày: yêu cầu bị cáo bồi thường tồng cộng số tiền 225.402.000 đồng, từ khi sự việc xảy ra thì bị cáo không có đến gia đình tôi để thăm hỏi cũng như bồi thường thiệt hại; về trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử theo quy định pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lâm Th trình bày: yêu cầu được nhận lại chiếc xe vì đây là phương tiện di nhất để lưu thông của gia đình. Về số tiền 1.000.000 đồng là tiền của vợ tôi nộp cho cơ quan điều tra, con tôi không biết vợ chồng tôi cũng thống nhất cho số tiền này để con tôi khắc phục hậu quả không yêu cầu trả lại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Triệu Thị N trình bày: số tiền 1.000.000 đồng là tiền của tôi tự nộp cho cơ quan điều tra, con tôi là Hon không biết, tôi đồng ý cho số tiền này cho con tôi để bồi thường cho bị hại không yêu cầu trả lại. Sau khi con tôi gây tai nạn thì tôi có qua gia đình bị hại một lần để thăm hỏi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sóc Trăng, cơ quan điều tra Công an thị xã C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên trong quá trình quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: tại phiên tòa hôm nay người làm chứng Trần Thị Mỹ L vắng mặt không lý do. Xét thấy, việc vắng mặt bà Lan không gây cản trở cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục xét xử vụ án.

[3] Việc xác định người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo xác định số tiền 1.000.000 đồng nộp tại cơ quan điều tra không phải do bị cáo nộp, bị cáo cũng không tác động gia đình bị cáo nộp. Người liên quan Lâm Th trình bày số tiền này do bà Triệu Thị N nộp, tại phiên tòa hôm nay bà Triệu Thị N có mặt và xác định số tiền trên của bà và bà nộp để khắc phục một phần hậu quả do bị cáo gây ra, bà tự nguyện nộp chứ bị cáo không kêu bà nộp. Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất đưa bà Triệu Thị N tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[4] Qua xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo Lâm Lâm H đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời thừa nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được như Bản kết luận giám định pháp y về tử thi, biên bản dựng lại hiện trường; Biên bản khám nghiệm tử thi; Biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao và các tài liệu khác mà cơ quan điều tra đã thu thập trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 18 giờ 20 phút ngày 08/02/2022 bị cáo Lâm Lâm H đã điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 83P3-xxxxx lưu thông trên Quốc lộ Nam Sông Hậu theo hướng Phường 1, thị xã C về phường V, thị xã C và bị cáo cho xe lấn sang phần đường bên trái để vượt lên xe tải đang đi cùng chiều phía trước, trong lúc đang vượt thì xe mô tô của bị cáo đụng vào người ông Tăng Suôl đang đứng cập lộ bên trái theo hướng xe của bị cáo lưu thông làm cho ông Tăng Suôl té xuống lộ dẫn đến tử vong; bị cáo điều khiển xe Honda Blade trên 50cc nhưng không có bằng lái xe. Hành vi của bị cáo vi phạm khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 58 của Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Do đó, Cáo trạng số 02/CT-VKS-P2, ngày 03/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Lâm Lâm H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo.

[5] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, tội phạm bị cáo phạm phải rất nghiêm trọng, xâm phạm đến an toàn trật tự công cộng và ảnh hưởng đến tính mạng của người khác trái pháp luật, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, không tiền án tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc khmer có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần còn hạn chế; quá trình điều tra mẹ bị cáo có nộp số tiền 1.000.000 đồng để khắc phục dùm bị cáo một phần hậu quả, bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là có căn cứ và thể hiện tính khoản hồng của pháp luật.

[7] Trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tiền tổn thất tinh thần và tiền mai táng phí tổng cộng 225.402.000 đồng và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đồng ý bồi thường toàn bộ số tiền này cho bị hại. Xét thấy, sự thỏa thuận này là tự nguyện phù hợp với quy định pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận và buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho người đại diện hợp pháp bị hại tiền tổn thất tinh thần và mai táng phí tổng cộng là 225.402.000 đồng (hai trăm hai mươi lăm triệu, bốn trăm linh hai nghìn đồng).

[8] Từ phân tích trên thấy rằng đề nghị của luật sư bào chửa cho bị cáo đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với đề nghị của luật sư áp dụng mức án thấp nhất mà kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra có thu giữ:

- Một xe môtô mang biển số 83P3-xxxxx và một giấy chứng nhận đăng ký xe môtô mang biển số 83P3-xxxxx mang tên Lâm Th. Xét thấy, chiếc xe này là tài sản hợp pháp của ông Lâm Th khi bị cáo lấy xe điều khiển ông Thiển không có sự đồng ý của ông Thiển và ông Thiển cũng không biết nên cần trả lại cho ông Thiển theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tiếp tục quản lý số tiền 1.000.000 đồng gia đình đã nộp trong quá trình điều tra để đảm bảo Thi hành án.

[10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a, c Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và án phí dân sự theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, do bị cáo là người dân tộc khmer sống ở xã có điều kiện kinh tế khó khăn và bị cáo có đơn xin miễn án phí nên căn cứ theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết nêu trên bị cáo được miễn toàn bộ án phí.

[11] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào các điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều 260; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 23; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Lâm Lâm H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”

1. Tuyên xử: bị cáo Lâm Lâm H 05 (năm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện chấp hành án hoặc bị bắt thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các điều 584, 585, 591 và 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Buộc bị cáo Lâm Lâm H có trách nhiệm bồi thường cho các người đại diện hợp pháp bị hại tổng số tiền 225.402.000 đồng (hai trăm hai mươi lăm triệu, bốn trăm linh hai nghìn đồng).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được Thi hành án có yêu cầu Thi hành án mà bị cáo chưa thanh toán số tiền trên thì hằng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền chậm thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trả lại cho ông Lâm Th một xe môtô mang biển số 83P3-xxxxx và một giấy chứng nhận đăng ký xe môtô mang biển số 83P3-xxxxx.

- Tiếp tục quản lý số tiền 1.000.000 đồng do gia đình bị cáo nộp để đảm bảo Thi hành án (theo biên lai thu tiền số 0001622 của Cục Thi hành án tỉnh Sóc Trăng).

4. Về án phí: Bị cáo Lâm Lâm H được miễn toàn bộ án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm.

5. Báo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;