TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 463/2022/HS-PT NGÀY 13/07/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC TÀI NGUYÊN
Ngày 13 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 222/2022/TLPT-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Châu Thanh H. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2022/HS-ST ngày 03/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
- Bị cáo kháng cáo:
Châu Thanh H, tên gọi khác: Bảy Bờ, sinh năm 1985, tại tỉnh Long An. Nơi cư trú: ấp N, xã C, huyện Đ, tỉnh Long An. Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Châu Văn T (đã chết) và Trần Thị M, sinh năm 1954; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không.
Tiền sự: 01. Ngày 03/7/2018, Công an huyện Tân Trụ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 10.000.000 đồng, về hành vi khai thác khoáng sản mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chấp hành xong quyết định xử phạt cùng ngày.
Bị cáo tại ngoại (vắng mặt).
(Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Thành L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 16/6/2019, lực lượng Thủy đội thuộc Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Long An tuần tra trên dòng sông Vàm Cỏ Đông đến đoạn qua Ấp 2, xã Tân Phước Tây, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An thì phát hiện các đối tượng Nguyễn Thành L, Huỳnh Minh H1 và Nguyễn Minh T1 (tên gọi khác là Phước) đang có hành vi bơm hút cát từ lòng sông lên ghe gỗ biển kiểm soát BTr-0653 do Lê Trường V điều khiển chở theo vợ tên Phạm Thị D, nên lập biên bản vi phạm hành chính và tạm giữ tang vật gồm:
- 01 ghe gỗ không biển kiểm soát, dài 08m, rộng 1,6m, cao 0,7m, có gắn 01 máy nổ hiệu KIA, 25m ống nhựa đường kính 14cm, 01 đầu bơm không khí bằng kim loại và 01 đầu bơm hút cát bằng kim loại.
- 01 ghe gỗ biển kiểm soát BTr-0653, dài 18,2m, rộng 4,8m, cao 1,9m;
28m3 hỗn hợp vật chất dạng hạt (cát), 01 giấy chứng nhận đăng ký phương tiện thủy nội địa số 0631/CK, 01 giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện thủy nội địa số 00328/09V71.
Tại Kết luận giám định ngày 15/01/2021 của Giám định viên tư pháp lĩnh vực môi trường kết luận 28m3 hỗn hợp vật chất dạng hạt nêu trên là khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (Cát các loại).
Theo kết luận định giá tài sản số 989/KL-HĐĐGTS ngày 26/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND tỉnh Long An kết luận giá trị 28m3 cát xây (cát hồ) tại thời điểm ngày 16/6/2019 là 5.054.000 đồng.
Tại Công văn số 2112/SGTVT-QLCLHT ngày 15/5/2020 của Sở Giao thông vận tải tỉnh Long An xác định tuyến sông Vàm Cỏ Đông qua Ấp 2, xã Tân Phước Tây, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An là khu vực nội thủy thuộc tuyến đường thủy nội địa, nằm trong lãnh thổ của nước Việt Nam.
Qua điều tra xác định: Ghe gỗ có gắn thiết bị bơm hút cát là của Châu Thanh H. Trưa ngày 15/6/2019, H điện thoại gặp Lê Trường V thỏa thuận tối cùng ngày đi bơm hút cát từ lòng sông Vàm Cỏ Đông bán cho V, với giá 100.000 đồng/m3. Sau đó, H điện thoại thuê Nguyễn Thành L, Huỳnh Minh H1, Nguyễn Minh T1 và người tên Nhi (không xác định nơi cư trú), hẹn tối cùng ngày đến Xóm Đáy, thuộc ấp Đông Nhất, xã Tân Chánh, huyện Cần Đước, tỉnh Long An, để đi bơm hút cát bán cho V, mỗi người được trả tiền công 200.000 đồng/ghe cát.
Khoảng 20 giờ cùng ngày, L, H1 và T1 đến điểm hẹn thì gặp người tên Nhi đang ngồi chờ trên ghe gỗ của H. Cả 04 người lên ghe và điều khiển ghe ra giữa lòng sông Vàm Cỏ Đông cặp vào mạng ghe gỗ có tải trọng 50 tấn, biển số BTr- 0653 do V điều khiển chở theo vợ tên Phạm Thị D. Sau đó, V điều khiển ghe biển số BTr-0653 kéo ghe gỗ có gắn thiết bị bơm hút cát di chuyển hướng về huyện Bến Lức. Đến đoạn thuộc ấp 2, xã Tân Phước Tây, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, V cho 02 ghe dừng lại và thả neo đậu. Theo sự phân công của H, L dùng đèn pin làm tín hiệu cho các phương tiện khác lưu thông qua lại phát hiện tránh, T1 và H1 di chuyển ống bơm cát lên ghe BTr-0653, người tên Nhi lặn xuống đáy sông tìm nơi có cát đặt đầu hút cát. Đến 02 giờ 30 phút ngày 16/6/2019, lực lượng Thủy đội - Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Long An tuần tra phát hiện bắt giữ L, H1 và T1, người tên Nhi trốn thoát.
Qua xác minh xác định: Công an huyện Tân Trụ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính Châu Thanh H vào ngày 03/7/2018 và Nguyễn Thành L vào ngày 29/3/2019, mỗi người 10.000.000 đồng, cùng về hành vi khai thác khoáng sản mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 44 Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ. H và L đã chấp hành xong quyết định xử phạt.
Việc xử lý đồ vật tạm giữ: Ngày 17/7/2019, Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Long An ra quyết định trả lại tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính cho Lê Trường V, gồm:
01 ghe gỗ biển kiểm soát BTr-0653, 01 giấy chứng nhận đăng ký phương tiện thủy nội địa số 0631/CK, 01 giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện thủy nội địa số 00328/09V71.
Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKSLA-P1 ngày 17 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An truy tố các bị cáo Châu Thanh H và Nguyễn Thành L về tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2022/HS-ST ngày 03/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:
1. Tuyên bố: Bị cáo Châu Thanh H phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”.
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Hình sự; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Châu Thanh H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với Nguyễn Thành L, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 16/3/2022, bị cáo Châu Thanh H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Châu Thanh H vắng mặt. Theo nội dung đơn kháng cáo thể hiện, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo với lý do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, phải chăm sóc mẹ già bị bệnh tiểu đường và bệnh tim, đi lại khó khăn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Bị cáo Châu Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xét xử vắng mặt bị cáo.
Về nội dung: Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Châu Thanh H phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” theo điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo 06 tháng tù là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo H kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tòa án đã triệu tập hợp lệ, bị cáo Châu Thanh H vắng mặt không rõ lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của bị cáo không gây cản trở cho việc xét xử nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án vắng mặt bị cáo.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Châu Thanh H vắng mặt. Căn cứ lời khai nhận của bị cáo trong quá trình điều tra, và tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, với vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:
[2.1] Ngày 03/7/2018, bị cáo Châu Thanh H bị Công an huyện Tân Trụ, tỉnh Long An ra Quyết định số 1049/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bị cáo chấp hành xong quyết định xử phạt nêu trên vào cùng ngày. Đến ngày 15/6/2019, bị cáo H lại tiếp tục thuê Nguyễn Thành L cùng với Nguyễn Minh T1, Huỳnh Minh H1 và người tên Nhi (không rõ nơi cư trú) thực hiện hành vi khai thác khoáng sản (cát), tại khu vực nội thủy thuộc tuyến đường thủy nội địa, đoạn qua ấp 2, xã Tân Phước Tây, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Lúc 02 giờ 30 phút, ngày 16/6/2019, khi cả nhóm đang khai thác cát trái pháp luật thì bị lực lượng Thủy đội thuộc Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Long An bắt quả tang với 28m3 hỗn hợp vật chất dạng hạt.
[2.2] Tại Kết luận giám định ngày 15/01/2021 của Giám định viên tư pháp lĩnh vực môi trường kết luận 28m3 hỗn hợp vật chất dạng hạt thu giữ nêu trên là khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (Cát các loại).
[2.3] Theo kết luận định giá tài sản số 989/KL-HĐĐGTS ngày 26/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND tỉnh Long An kết luận giá trị 28m3 cát xây (cát hồ) tại thời điểm ngày 16/6/2019 là 5.054.000 đồng.
[2.4] Tại thời điểm bị cáo H thực hiện hành vi, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo Quyết định số 1049/QĐ-XPVPHC nêu trên.
[2.5] Với hành vi nêu trên, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Châu Thanh H phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét thấy, hành vi của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của nhà nước về khai thác tài nguyên, gây thất thoát tài nguyên, ảnh hưởng đến môi trường và đời sống cộng đồng, gây thiệt hại đến nguồn thu ngân sách của nhà nước, gây mất trật tự trị an ở địa phương; vì vậy cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo Châu Thanh H.
[4.1] Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, khi lượng hình, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; đồng thời áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, có bác và cô là người có công với cách mạng quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xác định bị cáo có vai trò chủ mưu trong vụ án để xử phạt bị cáo 06 tháng tù, bằng mức khởi điểm của hình phạt tù có thời hạn tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự là phù hợp, có lợi cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình đơn có xác nhận của chính quyền địa phương về việc hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nhưng tình tiết này đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét áp dụng và cũng không làm thay đổi đáng kể tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra nên kháng cáo này của bị cáo là không có căn cứ chấp nhận.
[4.2] Về kháng cáo xin được hưởng án treo, bị cáo H giữ vai trò chủ mưu trong vụ án, là người thuê L, T1, H1, và Nhi thực hiện hành vi bơm hút cát để bán nên không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao). Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo nêu trên của bị cáo.
[5] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo của bị cáo, và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
[6] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[7] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Châu Thanh H phải chịu theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Châu Thanh H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2022/HS-ST ngày 03/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
[1] Tuyên bố: Bị cáo Châu Thanh H phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”.
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Hình sự; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Châu Thanh H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
[2] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Châu Thanh H phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội vi phạm quy định khai thác tài nguyên số 463/2022/HS-PT
Số hiệu: | 463/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về