TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 52/2024/HS-ST NGÀY 11/09/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ LÂM SẢN
Ngày 11 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2024/TLST- HS ngày 15 tháng 8 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sổ: 53/2024/QĐXXST-HS ngày 30/8/2024 đối với bị cáo:
Lường Văn N; tên gọi khác: Không; sinh năm 1987, tại huyện Y, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lường Văn B (Đã Chết)và bà Lường Thị Nl; vợ: Hoàng Thị L; con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án: không; tiền sự: Ngày 10/01/2024, Hạt kiểm lâm huyện Y ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 01084/QĐ-XPHC bằng hình thức phạt tiền, mức phạt 4.000.000 đồng. Ngày 24/02/2024, Lường Văn N chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. (Đến thời điểm phạm tội mới chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính). Nhân thân: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Nguyên đơn dân sự: UBND huyện Y, tỉnh Sơn La. Đại diện theo pháp luật ông Lù Văn C - Chủ tịch UBND huyện; đại diện theo ủy quyền là ông Dương Hồng H - Hạt trưởng hạt kiểm lâm huyện Y, tỉnh Sơn La theo giấy ủy quyền số 2309/GUQ-UBND ngày 06/9/2024. Có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Hà Văn C1; sinh năm 1958; trú tại bản L, xã M, huyện Y, tỉnh Sơn La. Có mặt.
2. Chị Hoàng Thị L; sinh năm 1984; trú tại bản N, xã M, huyện Y, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 10/01/2024, bị cáo Lường Văn N bị Hạt Kiểm lâm huyện Y xử phạt vi phạm hành chính số tiền 4000.000 đồng về hành vi Mua bán và vận chuyển lâm sản trái pháp luật 45 kg Phong Lan loài thực vật rừng ngoài gỗ thông thường. Bị cáo chua chấp hành xong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì đến ngày 19/01/2024 lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm, cụ thể:
Khoảng 10 giờ ngày 19/01/2024, bị cáo Lường Văn N một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát 26N1 - xxxx của gia đình mang theo 02 chiếc bao tải dứa đi từ nhà tại bản N, xã M, huyện Y đến khu rừng thuộc bản Luông, xã M, huyện Y thuộc tiểu khu H, thửa số 144, khoảnh số 07 là rừng phòng hộ được Ủy ban nhân dân huyện Y giao cho gia đình ông Lường Văn C2 trú tại bản luông trông coi bảo vệ, để khai thác L1 rừng mang bán kiếm lời. Khi đến nơi, N dựng xe máy ở bìa rừng, cầm theo 02 chiếc bao tải dứa đi bộ vào rừng, sau đó trèo lên các khe đá, nền đất và các thân cây gỗ dùng tay nhổ các cây thực vật rừng màu xanh mà theo nhận thức của N đó là cây Phong lan rừng rồi cho vào 02 chiếc bao tải dứa mang theo. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, N vác 02 chiếc bao tải dứa bên trong chứa đầy các cây thực vật rừng màu xanh buộc lên chiếc xe máy chở về nhà đợi tìm nơi tiêu thụ. Khi N đi về đến khu vực bản Luông, xã M, huyện Y thì bị tổ công tác Công an huyện Y yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Lường Văn N đã tự giác giao nộp toàn bộ số vật chứng nêu trên và khai nhận hành vi vi phạm của bản thân. Vật chứng là 02 chiếc bao tải dứa mầu vàng và mầu trắng, bên trong đều đựng các cây thực vật màu xanh nghi là cây Phong lan rừng, 01 chiếc xe máy biển kiểm soát: 26N1-xxxx. Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành cân tịnh xác định khối lượng số vật chứng nghi là lâm sản được tổng khối lượng là 26kg.
Ngày 24/01/2024, Cơ quan điều tra lấy mẫu ký hiệu L1= 02kg từ bao tải mầu trắng và mẫu ký hiệu L2= 02kg từ bao tải mầu vàng trưng cầu Viện nghiên cứu lâm sinh- V xác định tên, nhóm thực vật đối với số vật chứng đã thu giữ. Tại Công văn phúc đáp số: 23 ngày 23/02/2024 của V1- V xác định “Các mẫu vật là loài thực vật sống ký sinh trên gỗ”.
Ngày 26/4/2024, Cơ quan điều tra ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản đối với 26 kg thực vật rừng ngoài gỗ, tên thường gọi là Phong lan rừng. Tại kết luận định giá tài sản số 24/04.5.2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận: Giá trị 26 kg thực vật rừng ngoài gỗ, loại phong lan rừng là 260.000 đồng.
Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát 26N1 - xxxx, màu sơn đen - trắng; 01 chiếc bao tải mầu trắng, bên trong có chứa 13kg cây thực vật rừng thông thường ngoài gỗ; 01 chiếc bao tải mầu vàng, bên trong có chứa 09kg cây thực vật rừng thông thường ngoài gỗ (phong lan rừng). Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu quyết định chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Châu bảo quản chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS-YC ngày 14 tháng 8 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, truy tố bị cáo Lường Văn N về tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản, quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa công khai bị cáo Lường Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ, trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm m khoản 1 Điều 232; điềm h, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lường Văn Nhân từ 18 tháng đến 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản. Không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước 22kg cây thực vật rừng thông thường ngoài gỗ (phong lan rừng); Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bao tải màu trắng; 01 chiếc bao tải màu vàng; Trả lại 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát 26N1 - xxxx, màu sơn đen - trắng cho gia đình bị cáo. Chấp nhận việc Ủy ban nhân dân huyện Y không yêu cầu Lường Văn N phải bồi thường khoản gì.
Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã vùng III là xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Đề nghị miễn án phí cho bị cáo.
Ý kiến của bị cáo Lường Văn N tự bào chữa: Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ân hận. Mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Ý kiến của đại diện nguyên đơn dân sự trình bày: Ngày 19/01/2024 bị cáo Lường Văn N đã khai thác trái phép cây thực vật rừng thông thường ngoài gỗ (phong lan rừng) tại rừng phòng hộ, do Ủy ban nhân dân huyện Y quản lý và giao cho ông Hà Văn C1 trông coi bảo vệ. số lượng bị cáo khai thác không lớn, không gây thiệt hại, ảnh hưởng đến hệ sinh thái cũng như môi trường rừng. Vì vậy không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Đối với 22kg cây Phong lan thu giữ của bị cáo vẫn còn giá trị sử dụng cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Ngoài ra không có ý kiến gì thêm.
Ý kiến của Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hà Văn C1 trình bày: Năm 2002 ông được nhà nước giao trông coi bảo vệ khu rừng phòng hộ thuộc bản Luông, xã M, huyện Y, thuộc tiểu khu H, thửa số 144, khoảnh số 07. Số cây rừng bị bị cáo chiếm đoạt là của nhà nước, bản thân ông và gia đình không bị thiệt hại ảnh hưởng gì. Vì vậy ông không có yêu cầu đề nghị gì.
Ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Thị L trình bày: Chị và bị cáo có quan hệ là vợ chồng. Năm 2014 hai vợ chồng có mua trả góp chiếc xe máy nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát 26N1 - xxxx, màu sơn đen - trắng để phục vụ cuộc sống sinh hoạt trong gia đình. Việc bị cáo sử dụng xe chở cây Phong lan chị không biết, hiện nay gia đình rất khó khăn, thuộc hộ cận nghèo, chiếc xe là tài sản duy nhất có giá trị trong gia đình. Chị L đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chiếu cố tạo điều kiện trả lại chiếc xe cho chị. Ngoài ra không có yêu cầu đề nghị gì thêm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Lường Văn N có đủ cơ sở đề khẳng định: Khoảng 10 giờ, ngày 19/01/2024, bị cáo Lường Văn N đã có hành vi vào khu rừng phòng hộ thuộc bản Luông, xã M, huyện Y, thuộc tiểu khu H, thửa số 144, khoảnh số 07 động cơ mục đích để lấy cây Phong lan rừng mang bán kiếm lời. Tại đây bị cáo đã trèo lên các khe đá, nền đất và các thân cây gỗ dùng tay nhổ lấy cây Phong lan, lấy được 26kg bị cáo cho vào hai chiếc bao tải dứa và mang về nhà. Trên đường về thì bị lực lượng chức năng kiểm tra phát hiện, bị cáo Lường Văn N đã tự giác giao nộp toàn bộ số vật chứng nêu trên, tổng khối lượng cây Phong lan là 26kg. Tại Công văn phúc đáp số: 23 ngày 23/02/2024 của V1- V xác định các mẫu vật thu giữ của bị cáo là loài thực vật sống ký sinh trên gỗ. Tại kết luận định giá tài sản số 24/04.5.2024 của Hội đồng định giá tài sản huyện Y kết luận: Giá trị 26 kg thực vật rừng ngoài gỗ, loại phong lan rừng là 260.000 đồng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lường Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Trước đó vào ngày 1 0/01/2024, bị cáo đã bị Hạt kiểm lâm huyện Y xử phạt vi phạm hành chính số: 01084/QĐ-XPHC bằng hình thức phạt tiền, mức phạt 4.000.000 đồng về hành vi vận chuyển lâm sản trái phép, đến ngày 19/01/2024, bị cáo Lường Văn N chưa chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hậu quả của hành vi, nhưng bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm. Trên cơ sở đó đủ điều kiện căn cứ kết luận hành vi trên của bị cáo Lường Văn N đã phạm vào tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản, theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232 của Bộ luật Hình sự, như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ. Việc xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan sai.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo Lường Văn N: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về khai thác bảo vệ rừng và lâm sản, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của địa phương. Tuy vậy bị cáo khai thác thực vật rừng số lượng không lớn, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tội phạm và hình phạt của bị cáo được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Lường Văn N: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo gây thiệt hại không lớn. Nhân thân bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức và am hiểu pháp luật có phần hạn chế. Nên cần vận dụng điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Nhân thân: Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Mua bán vận chuyển Lâm sản trái phép là yếu tố cấu thành tội phạm trong vụ án này.
Từ sự phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Khối lượng cây thực vật rừng bị cáo khai thác số lượng nhỏ, tác động ảnh hưởng đến môi trường không lớn. Bị cáo có đơn xin cải tạo tại địa phương có xác nhận của chính quyền địa phương. Nên xét chưa cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà chỉ cần phạt cải tạo không giam giữ như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú của bị cáo giám sát giáo dục theo quy định tại Điều 36 Bộ luật hình sự cũng đủ điều kiện giúp bị cáo tự cải tạo trở thành người lương thiện có ích cho xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung, Theo quy định tại khoản 4 Điều 232 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” và tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định bị cáo còn có thể bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp, không có tài sản riêng có giá trị, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.
[5] Vật chứng của vụ án: Đối với 22kg cây thực vật rừng thông thường ngoài gỗ (phong lan) cây đã bị khô héo một phần. Tuy vậy theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và ý kiến của nguyên đơn dân sự cây vẫn còn có giá trị, nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước; đối với 02 chiếc bao tải dứa của bị cáo dùng để dựng cây Phong lan là công cụ phương tiện phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; cần vận dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý.
Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát 26N1 - xxxx, màu sơn đen - trắng, bị cáo dùng để chở cây phong lan đi tiêu thụ là tài sản chung của bị cáo với vợ là Hoàng Thị L. Quá trình điều tra và tại phiên tòa chị Hoàng Thị L trình bày cả gia đình cho duy nhất là chiếc xe máy có giá trị, gia đình đã mua trả góp để phục vụ cuộc sống sinh hoạt gia đình. Việc bị cáo dùng để trở cây Phong lan chị không biết, hiện gia đình rát khó khăn thuộc hộ cận nghèo, chị L xin được trả lại chiếc xe máy, xét thấy cần vận dụng khoản 2 Điều 47 trả lại cho chị L.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có yêu cầu, đề nghị gì, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét giải quyết.
[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm m khoản 1 Điều 232; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lường Văn N phạm tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và Lâm sản.
Xử phạt bị cáo Lường Văn N 18 tháng (Mười tám tháng) cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo Lường Văn N cho Ủy ban nhân dân xã M, huyện Y, tỉnh Sơn La, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nhận được Quyết định thi hành án đối với bị cáo Lường Văn N về tội Vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và Lâm sản.
Không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 1 khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 22 kg cây thực vật rừng thông thường ngoài gỗ (phong lan rừng).
Tịch thu tiêu hủy 02 chiếc bao tải dứa của bị cáo.
Trả lại cho chị Hoàng Thị L chiếc xe máy nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát 26N1 - xxxx (Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục thi hành án huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La).
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ, khoản 1, điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lường Văn N.
Báo cho bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản số 52/2024/HS-ST
Số hiệu: | 52/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về