Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật hoang dã số 138/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 138/2024/HS-ST NGÀY 16/05/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ

Ngày 16/5/2024, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 113/2024/TLST-HS ngày 19/4/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2024/QĐXXST-HS ngày 03/5/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Phi A, sinh ngày 10/11/1991 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 5, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: Thôn 4, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Phi H, sinh năm 1973 và bà Bùi Thị Đ, sinh năm 1962; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị C, sinh năm 1995; bị cáo có 01 con, sinh năm 2023; tiền án: Không.

Tiền sự: 01, tại Quyết định số 63/QĐ-XPHC ngày 16/01/2023, Công an tỉnh Đắk Lắk xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo, hình thức phạt tiền 10.500.000 đồng, về hành vi tàng trữ động vật hoang dã.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 29/01/2024 cho đến nay (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị im , sinh năm 1973 (vắng mặt).

Địa chỉ: Th n 22, H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - Ông Trần Ngọc H, sinh năm 1972 (vắng mặt).

Địa chỉ: Th n 22, H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk - Chị Nguyễn Thị Cu, sinh năm 1995 (vắng mặt).

Địa chỉ: Th n 5, H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/01/2023, Cao Phi A bị Phòng Cảnh sát m i trường Công an tỉnh Đắk Lắk xử phạt vi phạm hành chính (hình thức phạt tiền 10 500 000 đồng), về hành vi tàng trữ trái phép 21 cá thể động vật rừng th ng thường và 01 cá thể động vật rừng thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB (Mèo rừng). Cùng ngày, Cao Phi A đ nộp phạt số tiền nêu trên vào ngân sách Nhà nước nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Đến ngày 28/12/2023, Cao Phi A mua 21 con rắn của bà Nguyễn Thị Kim K được đựng trong 03 túi lưới khác nhau với giá 690 000 đồng và ngày 29/12/2023, A tiếp tục mua 01 con chồn của 01 người đàn ng (kh ng rõ nhân thân, lai lịch) với giá 250 000 đồng, để bán lại kiếm lời Đến khoảng 13 giờ ngày 29/12/2023, 01 người đàn ng tên Tuấn (chưa rõ lai lịch) đến gặp A hỏi mua rắn, chồn thì A đồng ý bán 21 con rắn và 01 con chồn với giá 1 200 000 đồng. Ông Tuấn nói đến 17 giờ chiều thì gửi hàng cho xe buýt chở đến ngã ba Ea Kao thuộc phường E, thành phố B cho ông Tuấn Đến khoảng 17 giờ 20 phút cùng ngày, A mang thùng giấy carton, bên trong đựng 21 con rắn và 01 con chồn, đi bộ qua bên kia đường Tỉnh lộ 2, để gửi xe buýt chạy theo tuyến huyện r ng Ana đi thành phố B, giao hàng đến ngã ba Ea Kao cho ông Tuấn, khi A vừa đi qua bên kia đường Tỉnh lộ 2 thuộc Thôn 4, xã H, thành phố B, thì bị Tổ công tác của Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Đắk Lắk tiến hành kiểm tra, phát hiện Cao Phi A đang có hành vi mua bán 01 cá thể chồn còn sống và 21 cá thể rắn còn sống. Tổng cộng là 22 cá thể, nghi là động vật hoang dã nên Phòng Cảnh sát kinh tế đ tiến hành tạm giữ tang vật phục vụ công tác điều tra.

Cơ quan điều tra tiến hành tạm giữ đối với: 01 cá thể Chồn bạc má; 03 cá thể Rắn hổ mang Trung quốc và 18 cá thể Rắn mống; 12 cái lồng bẫy rắn, đ qua sử dụng của ông Trần Ngọc H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A78, màu đen, số IMEI 1 869008062954394, số IMEI 2 869008062954386, số seri 47eacb6c, gắn 01 sim điện thoại có số thuê bao 0974581xxx của ông Trần Ngọc H; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Gala y Note 8, màu đen, số IMEI 1 35379098374949, số IMEI 2 353760098374947, số seri R58JC2QJKK, gắn 01 sim điện thoại có số thuê bao 0946317xxx của Cao Phi A (được niêm phong theo quy định).

Tại Bản Kết luận giám định hình thái động vật số 68/STTNSV ngày 10/01/2024, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam kết luận:

+ 03 cá thể động vật là loài Rắn hổ mang Trung quốc, tên khoa học Naja atra, thuộc lớp Bò sát (Reptilia). Loài Rắn hổ mang Trung quốc có tên trong Nhóm IIB, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, ban hành kèm theo Nghị định 84/2021/NĐ-CP ngày 22/9/2021 của Chính Phủ.

+ 18 cá thể động vật là loài Rắn mống, có tên khoa học Xenopeltis unicolor, thuộc lớp Bò sát (Reptilia) và 01 cá thể động vật là loài Chồn bạc má, tên khoa học Melogale moschata, thuộc lớp Thú (Mamalia). Loài Rắn mống và Chồn bạc má không có tên trong Danh mục các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, ban hành kèm Nghị định 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 và Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, ban hành kèm Nghị định số 84/2021/NĐ- CP ngày 22/9/2021 của Chính Phủ.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 264/KL-HĐĐG ngày 23/01/2024, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Đắk Lắk kết luận:

+ 03 cá thể Rắn hổ mang Trung quốc, tên khoa học Xenopeltis unicolor, có giá trị 1 050 000 đồng.

+ 18 cá thể Rắn mống, có tên khoa học Naja atra, có giá trị 1 974 000 đồng.

+ 01 cá thể Chồn bạc má, tên khoa học Melogale moschata, có giá trị 950 000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 124/CT-VKS ngày 19/4/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Cao Phi A về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã”, theo điểm c khoản 1 Điều 234 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống như lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và nội dung bản Cáo trạng.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Cao Phi A phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã” Áp dụng điểm c khoản 1 và khoản 4 Điều 234; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự, đề nghị: Xử phạt Cao Phi A từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ; xử phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 50 000 000 đồng đến 60 000 000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng, áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị: Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đ giao 01 cá thể Chồn bạc má cho Trung tâm Bảo tồn Voi, cứu hộ động vật và Quản lý bảo vệ rừng, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; giao 03 cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc và 18 cá thể Rắn mống cho Khu bảo tồn thiên nhiên E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk để chăm sóc, quản lý theo quy định; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 8 của bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội.

Bị cáo không tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đ thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đ thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án đ được thẩm tra tại phiên tòa Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 29/12/2023, tại khu vực Tỉnh lộ 2, xã H, thành phố B, bị cáo Cao Phi A (là người đ bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ động vật hoang dã), thực hiện hành vi buôn bán 03 cá thể Rắn hổ mang Trung Quốc, là loài động vật có tên trong nhóm IIB, danh mục thực vật, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, trị giá 1 050 000 đồng; 18 cá thể Rắn mống và 01 cá thể Chồn bạc má, là động vật hoang d th ng thường, trị giá 2 924 000 đồng.

Nhận thấy, bị cáo là người thành niên, nhận thức được hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, đ trực tiếp xâm phạm quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường, bảo vệ sự cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học; gây ảnh hưởng đến việc bảo tồn, duy trì, phát triển số lượng các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm. Hội đồng xét xử xác định hành vi của bị cáo đ cấu thành tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 234 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 234 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 242 và Điều 244 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

c) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật thu lợi bất chính hoặc trị giá dưới mức quy định tại điểm a, b khoản này nhưng đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, căn cứ vào các tình tiết của vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng ét ử ét thấy:

Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú và c ng việc ổn định nên kh ng cần thiết cách ly khỏi hội mà áp dụng hình phạt cải tạo kh ng giam giữ theo Điều 36 Bộ luật hình sự, tạo điều kiện cho bị cáo được lao động và cải tạo dưới sự giám sát của gia đình và chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung trong hội Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn (vợ của bị cáo kh ng có nghề nghiệp ổn định, phải nu i con nhỏ sinh năm 2023) có ác nhận của chính quyền địa phương, Hội đồng ét ử miễn khấu trừ thu nhập và kh ng áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo [5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đ ra Quyết định ử lý vật chứng trả 01 cá thể Chồn bạc má về m i trường tự nhiên, tại Trung tâm Bảo tồn voi, cứu hộ động vật và Quản lý bảo vệ rừng, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; trả 03 cá thể Rắn hổ mang Trung quốc và 18 cá thể Rắn mống về m i trường tự nhiên, tại hu bảo tồn thiên nhiên E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, để chăm sóc và quản lý theo quy định của pháp luật Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước đối với 01 chiếc điện thoại di động, nh n hiệu Samsung Gala y Note 8, là tài sản của bị cáo Cao Phi A sử dụng vào mục đích phạm tội [6] Về các đối tượng và hành vi khác liên quan:

Đối với bà Nguyễn Thị Kim K đ có hành vi mua bán và ng Trần Ngọc H (chồng của bà K) có hành vi săn, bắt đối với 18 cá thể động vật là loài Rắn mống và 03 cá thể động vật là loài Rắn hổ mang Trung quốc. Qua xác minh bà K và ông H chưa có tiền án, tiền sự nên hành vi không cấu thành tội phạm, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị Kim K và ông Trần Ngọc H, mỗi người 6 000 000 đồng, theo quy định tại điểm a và b, khoản 1, Điều 23 Nghị định số 35/2019/NĐ-CP ngày 25/4/2019 của Chính phủ (sửa đổi bởi điểm a, khoản 14, Điều 1 Nghị định số 07/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022); đồng thời, xử lý vật chứng đối với 12 cái lồng bẫy rắn và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A78 là tài sản của ông Trần Ngọc H.

Đối với chị Nguyễn Thị C (vợ của Cao Phi A), chị C không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Cao Phi A nên Cơ quan điều tra kh ng đề cập xử lý đối với chị C là phù hợp.

Đối với người đàn ng đ bán 01 cá thể động vật là loài Chồn bạc má cho Cao Phi A, quá trình điều tra chưa ác định được nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, xử lý sau là có căn cứ.

Đối với người đàn ng tên Tuấn sử dụng số thuê bao 0814695xxx để liên lạc, Tuấn là người trực tiếp đến Cửa hàng tạp hóa Phi A đặt mua 21 cá thể Rắn và 01 cá thể Chồn bạc má của Cao Phi A Quá trình điều tra ác định được người sử dụng số thuê bao nêu trên là ông Trương Vũ Ngọc S (sinh ngày 04/8/1985, địa chỉ thường trú tại 112/10 đường N, thành phố B), nhưng hiện ông S không có mặt tại địa phương, kh ng rõ đi đâu Do đó, Cơ quan điều tra tách hành vi của người đàn ng tên Tuấn ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục xác minh, xử lý sau là có căn cứ.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Cao Phi A phải chịu 200 000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Cao Phi A phạm tội: “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 234; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Cao Phi A: 02 (hai) năm cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk nhận được quyết định thi hành án.

Giao bị cáo Cao Phi A cho Ủy ban nhân dân xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

- Miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Cao Phi A.

- Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Cao Phi A, theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 129/LCCT-TA ngày 19/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước đối với: 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Gala y Note 8, màu đen, số imei 1 353759098374949, số imei 2 353760098374947, số seri R58JC2QJKK, gắn 01 sim điện thoại có số thuê bao 0946317xxx, điện thoại đ qua sử dụng, là tài sản của bị cáo Cao Phi A.

(Vật chứng có đặc điểm cụ thể theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/5/2024 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk)

[3] Về án phí: Bị cáo Cao Phi A phải chịu 200 000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật hoang dã số 138/2024/HS-ST

Số hiệu:138/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;