Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật hoang dã số 125/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 125/2024/HS-ST NGÀY 11/09/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ

Ngày 11 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 101/2024/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 559/2024/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Văn T; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 24/6/1990; tại: thị trấn T, T, Cao Bằng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tây; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Nơi thường trú: xóm Đ, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; Nơi ở hiện tại: Tổ B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng; Bố đẻ: Đỗ Quang T1 (đã chết); Mẹ đẻ: Nông Thị Đ (sinh năm 1963); Anh chị em ruột: Bị cáo là con út trong gia đình có 02 anh, em; Vợ: Bế Thị H (sinh năm 1991); Con: có 02 con (sinh năm 2015 và 2019);

Tiền án: không có; Tiền sự: Ngày 29/11/2022, Phòng C1, Công an tỉnh C xử phạt Đỗ Văn T về hành vi Tàng trữ lâm sản không có hồ sơ hợp pháp; mức phạt tiền: 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng); Ngày 01/12/2022 đã chấp hành xong hình phạt;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt. 2. Họ và tên: Lê Xuân H1; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 06/8/1992; tại: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 6/12; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Bố đẻ: Lê Xuân C (sinh năm 1966); Mẹ đẻ: Nguyễn Thị T2 (sinh năm 1971); Anh chị em ruột: Bị cáo là con cả trong gia đình có 03 anh, em; Vợ: Trương Thị T3 (sinh năm 1996); Con: có 02 con (sinh năm 2016 và 2018); Tiền án/ tiền sự: không có;

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18h20’ ngày 09/10/2023 Tổ công tác do Phòng C1, Công an tỉnh C chủ trì phối hợp với Công an thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng đang làm nhiệm vụ tại tổ dân phố B thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng thì phát hiện có 02 (hai) người nữ giới đang bốc hàng hóa lên xe máy có nhiều biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra: Nông Thị H2 (sinh năm 1989; trú tại: Xóm V, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng) điều khiển xe mô tô BKS: 11B1-xxxx và Khẩm Thị Trà M (sinh năm 1999; trú tại: Xóm V, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng) điều khiển xe mô tô BKS: 11U1-xxxx; cả hai đang cùng nhau bốc hàng hóa gồm 03 (ba) thùng carton được quấn băng dính màu vàng lên trên yên sau xe máy thì bị tổ công tác tiến hành kiểm tra. Tại thời điểm kiểm tra, H2 và M đều không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa. Tổ công tác đã yêu cầu Nông Thị H2 và Khẩm Thị Trà M đưa phương tiện và toàn bộ số hàng hóa trên về Công an thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng để làm rõ sự việc.

Quá trình điều tra, xác định:

Đỗ Văn T (sinh năm 1990; trú tại: Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng) và Lê Xuân H1 (sinh năm 1992; trú tại: Xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; là giám đốc của Công ty trách nhiệm hữu hạn K) quen nhau và thường liên lạc với nhau qua ứng dụng mạng xã hội Zalo, đến khoảng tháng 6/2023 T thấy H1 thường đăng bài bán mặt hàng cá ngựa khô nên đã kết bạn với H1 và cả hai thường xuyên nói chuyện, trao đổi giá cả về mặt hàng cá ngựa khô, thấy H1 bán với giá rẻ nên T muốn mua cá ngựa khô với H1 để đem về Cao Bằng bán lại kiếm lời. Đến ngày 06/10/2023 T thỏa thuận mua với H1 26kg cá ngựa khô với giá 11.000.000đ/kg, tổng giá trị là 286.000.000 đồng, cả hai thống nhất khi nào T nhận được hàng hóa và kiểm tra đúng số lượng thì sẽ thanh toán tiền hàng cho H1.

Đến ngày 09/10/2023, H1 gửi hàng hóa là cá ngựa khô được đựng trong 03 (ba) thùng carton qua đường chuyển phát bưu điện đến thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng cho T, do T bận việc nên T đã nhờ Nông Thị H2 (là em họ của T) lấy hàng hóa và bảo quản tại nhà giúp T, T không nói cụ thể là hàng hóa gì, H2 đồng ý. Đến khoảng 17 giờ 10 phút cùng ngày H2 đến Bưu điện thị trấn T để nhận 01 (một) thùng hàng chở về nhà, còn 02 thùng nữa nên H2 nhờ Khẩm Thị Trà M (là hàng xóm của H2) cùng lấy xe máy đi chở hàng hóa, khi cả hai đang bốc hàng hóa lên xe máy tại cổng Bưu điện thị trấn T thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện, đưa phương tiện và toàn bộ số hàng hóa trên về Công an thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng để tiếp tục làm rõ sự việc.

Nguồn gốc của 26kg cá ngựa khô bị bắt giữ là do H1 đã mua gom của nhiều người trong khoảng thời gian tháng 7/2023 đến tháng 9/2023, qua mạng xã hội Facebook (mỗi người từ 2kg đến 3kg với giá 9.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng), H1 không nhớ rõ đã mua với ai và số lượng cụ thể ra sao.

Ngày 10/10/2023, tiến hành mở niêm phong kiểm tra, cân xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Kết quả: bên trong 03 (ba) thùng carton có 27 (hai mươi bảy) túi giấy màu nâu, bên ngoài quấn băng dính màu vàng, bên trong túi đựng nhiều cá thể động vật khô cứng, nguyên con, có đặc điểm giống nhau, có độ dài trung bình từ 4cm- 8cm, màu nâu-đen-vàng, nghi là cá ngựa khô.

Tiến hành cân số hàng hóa trong các thùng:

- Thùng số 01 (gồm 7 túi) nặng: 6,8kg (sáu phẩy tám kilogram);

- Thùng số 02 (gồm 10 túi) nặng: 9,6kg (chín phẩy sáu kilogram);

- Thùng số 03 (gồm 10 túi) nặng: 9,9kg (chín phẩy chín kilogram) Tổng khối lượng hàng hóa trong 03 thùng (gồm 27 túi) là 26,3kg (hai mươi sáu phẩy ba kilogram).

Ngày 12/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định động vật số 107/QĐ-CSKT và đưa mẫu vật đến Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Ngày 14/11/2023, Viện có Kết luận giám định động vật số 1934/STTNSV. Kết luận: Tất cả số mẫu vật giám định thuộc giống Cá ngựa Hippocampus. Trong đó gồm hai loài có tên khoa học là: Hippocampus spinosissimus (cá ngựa gai) và Hippocampus barbouri (cá ngựa).

Loài cá ngựa gai (Hippocampus spinosissimus) và loài cá ngựa (Hippocampus barbouri) đều có tên trong Phụ lục II Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã thuộc Phụ lục Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) ban hành kèm theo Thông báo 25/TB- CTVN, ngày 17/02/2023 của Cơ quan thẩm quyền quản lý CITES.

Ngày 12/01/2024, tiếp tục tiến hành kiểm tra, phân loại, xác định kích thước, khối lượng của từng nhóm cá ngựa để phục vụ việc định giá, kết quả:

- Cá ngựa có độ dài từ 4cm (bốn centimet) đến 6cm (sáu centimet) là 11.421 (mười một nghìn bốn trăm hai mươi mốt) cá thể, có trọng lượng 14,1 kg (mười bốn phẩy một kilogram) - Cá ngựa có độ dài từ 6cm (sáu centimet) đến 8cm (tám centimet) là 6.344 (sáu nghìn ba trăm bốn mươi bốn) cá thể, có trọng lượng 12,2kg (mười hai phẩy hai kilogram) Qua trao đổi, Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự tỉnh Cao Bằng thiếu thông tin để định giá. Ngày 05/02/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSKT) ra Công văn đề nghị thẩm định giá đến Công ty cổ phần T5 (địa chỉ: số A, ngõ B, đường K, p. T, Q. C, TP .), đề nghị thẩm định giá đối với số cá ngựa trên. Ngày 07/3/2024, Công ty cổ phần T5 phát hành Chứng thư thẩm định giá số 2402010/TDG/VCA-CTTDG, kết quả thẩm định giá: 357.834.000đ (Ba trăm năm mươi bảy triệu tám trăm ba mươi tư nghìn đồng).

Ngày 22/4/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra yêu cầu định giá tài sản số 1057/YC-CSKT gửi Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự tỉnh Cao Bằng. Đến ngày 16/5/2024, Hội đồng định giá tài sản ra Kết luận số 1338/KL-HĐĐGTS: 26,3kg (hai mươi sáu phẩy ba kilogram) cá ngựa khô đối với cả hai loài, loài cá ngựa gai Hippocampus spinosissimus và loài cá ngựa Hippocampus barbouri, vào thời điểm tháng 10 năm 2023 có giá 357.834.000đ (Ba trăm năm mươi bảy triệu tám trăm ba mươi tư nghìn đồng).

Ngày 19/10/2023, Phòng Cảnh sát kinh tế đã làm việc với Chi cục Thủy sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa, kết quả như sau: loài cá ngựa thuộc Phụ lục II CITES, nằm trong danh mục hạn chế đánh bắt, khai thác và đến thời điểm ngày 19/10/2023, Chi cục thủy sản tỉnh Thanh Hóa không cấp phép, cấp mã số cơ sở nuôi, trồng các loại thủy sản thuộc Phụ lục II CITES cho Công ty trách nhiệm hữu hạn K do Lê Xuân H1 là giám đốc.

Xác định rõ được số hàng hóa là cá ngựa không có nguồn gốc, xuất xứ; sau khi có kết luận định giá tài sản. Ngày 24/5/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đỗ Văn T và Lê Xuân H1, về tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã, quy định tại khoản 1 Điều 234 Bộ luật Hình sự.

Tại bản Cáo trạng số 70/CT-VKSCB-P1 ngày 21 tháng 8 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng đã truy tố Đỗ Văn T, Lê Xuân H1 về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 234 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, cả 02 bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên và thừa nhận bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng truy tố các bị cáo là đúng với hành vi đã thực hiện.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: các bị cáo Đỗ Văn T, Lê Xuân H1 phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 234 của Bộ luật Hình sự.

+ Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 234; điểm s khoản 1; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Văn T phạt tiền 90.000.000đ nộp vào ngân sách Nhà nước.

+ Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 234; điểm i, s khoản 1; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Xuân H1 phạt tiền 80.000.000đ nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại của bị cáo T vì sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Đối với số cá ngựa khô là vật chứng của vụ án cần tịch thu và tiêu hủy.

- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Các bị cáo Đỗ Văn T, Lê Xuân H1 nhất trí quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho các bị cáo ở mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa các bị cáo đều khai nhận tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng hành vi các bị cáo thực hiện. Xét lời khai của các bị cáo Đỗ Văn T, Lê Xuân H1 phù hợp nhau về thời gian, việc trao đổi mua bán số cá ngựa; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác như: Biên bản sự việc do Phòng cảnh sát kinh tế, Công an tỉnh Cao Bằng lập hồi 18 giờ 30 phút ngày 09/10/2023 đối với Nông Thị H2, Khẩm Thị Trà M thu giữ số vật chứng, Biên bản niêm phong và cân xác định khối lượng vật chứng; Kết luận giám định động vật số 1934/STTNSV, ngày 14/11/2023 của Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật; Kết luận của Hội đồng định giá tài sản cùng với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ khẳng định: Đỗ Văn T và Lê Xuân H1 quen biết nhau qua ứng dụng mạng xã hội Zalo, đến khoảng tháng 6/2023 T thấy H1 thường đăng bài bán mặt hàng cá ngựa khô, thấy H1 bán với giá rẻ nên T muốn mua cá ngựa khô với H1 để đem về Cao Bằng bán lại kiếm lời. Đến ngày 09/10/2023, H1 gửi cá ngựa khô đựng trong 03 (ba) thùng carton qua đường chuyển phát bưu điện đến thị trấn T, huyện T, tỉnh Cao Bằng cho T với khối lượng 26,3kg, trị giá 357.834.000đ (Ba trăm năm mươi bảy triệu tám trăm ba mươi tư nghìn đồng).

Bị cáo Đỗ Văn T, Lê Xuân H1 nhận thức rõ số hàng hóa mua bán là cá ngựa gai và cá ngựa là mặt hàng cấm buôn bán và vận chuyển, thấy hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích vụ lợi.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về bảo vệ môi trường, bảo vệ sự cân bằng sinh thái, đa dạng sinh học của các loài động vật hoang dã, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Hội đồng xét xử nhận định hành vi của 02 bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng đã truy tố các bị cáo theo điểm a khoản 1 Điều 234 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn do các bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm, hai bị cáo có vị trí, vai trò ngang nhau trong thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo Đỗ Văn T có 01 tiền sự, bị cáo Lê Xuân H1 có nhân thân tốt.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Cả 02 bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa cả 02 bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Bị cáo Lê Xuân H1 được áp dụng thêm tình tiết phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

[5] Về hình phạt chính:

Xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo là ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Tại phiên toà các bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội, tỏ ra ăn năn hối cải. Do vậy, không cần thiết áp dụng hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với các bị cáo vẫn bảo đảm tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Xét mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, có căn cứ pháp luật cần chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Về xử lý vật chứng: Tịch thu 01 điện thoại di động của bị cáo Đỗ Văn T là phương tiện phạm tội để hóa giá nộp ngân sách Nhà nước; Tịch thu tiêu hủy số cá ngựa khô là vật chứng của vụ án.

[8] Các nhận định khác:

Đối với Nông Thị H2 và Khẩm Thị Trà M: H2 biết số hàng hóa được T nhờ vận chuyển là cá ngựa khô, nhưng vì T đã gửi cho H2 xem hóa đơn mua bán hàng và hàng hóa được vận chuyển qua đường bưu điện nên H2 đã yên tâm và đồng ý vận chuyển cho T; do hàng hóa cồng kềnh nên H2 đã nhờ M đi cùng để giúp vận chuyển số hàng hóa trên, bản thân M không biết đây là hàng hóa gì. Quá trình điều tra, xác định H2 và M đều không được trả tiền công, không được hưởng lợi từ việc mua bán cá ngựa khô giữa Đỗ Văn T và Lê Xuân H1, do đó không đủ căn cứ để xử lý hình sự.

Quá trình điều tra ban đầu Lê Xuân H1 khai nhận có được nhờ Nguyễn Văn H3 và Hồ Tình T4 tham gia vào quá trình trao đổi, mua bán để hợp thức hóa nguồn gốc cá ngựa khô. Tuy nhiên khi tiến hành điều tra xác định H3 và T4 không liên quan, không được hưởng lợi từ việc mua bán cá ngựa khô giữa Đỗ Văn T và Lê Xuân H1, do đó không đủ căn cứ để xử lý hình sự.

Đối với hóa đơn GTGT số 00000012, ký hiệu 1C23THH ngày 09/10/2023 của Công ty K xuất cho Đỗ Văn T, Chi cục thuế huyện C3, tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định số 444/CCT-KT về việc xử lý vi phạm hành chính về thuế đối với Công ty K, phạt tiền 35.000.000đ, biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc hủy hóa đơn đã sử dụng.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

1. Về tội danh: Các bị cáo Đỗ Văn T, Lê Xuân H1 phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã”.

2. Về hình phạt và Điều luật áp dụng:

+ Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 234; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn T: 90.000.000đ (Chín mươi triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

+ Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 234; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35 Bộ luật Hình sự; xử phạt: Bị cáo Lê Xuân H1: 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động của bị cáo Đỗ Văn T được niêm phong trong phong bì, mặt trước ghi “Điện thoại của Đỗ Văn T (SN 1990, trú tại tổ B, TT T, H. T, tỉnh Cao Bằng), mặt sau có chữ ký xác nhận của các thành phần tham gia niêm phong và đóng hình dấu giáp lai màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng.

- Tịch thu, tiêu hủy cá ngựa khô là vật chứng của vụ án được niêm phong trong 06 thùng xốp (gồm 03 thùng ký hiệu KT01; 03 thùng ký hiệu KT02, có ghi “Tang vật (cá ngựa khô) đã xác định kích thước, khối lượng của từng nhóm ngày 12/01/2024” có chữ ký xác nhận của các thành phần tham gia niêm phong và đóng hình dấu giáp lai màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng (theo biên bản mở niêm phong, kiểm tra, phân loại, xác định kích thước, khối lượng của từng nhóm và niêm phong lại ngày 12/01/2024 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh C.

(Xác nhận các vật chứng trên được chuyển giao cho Cục THADS tỉnh Cao Bằng theo biên bản giao nhận vật chứng số 140 ngày 23/8/2024).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Đỗ Văn T, Lê Xuân H1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo 200.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Đỗ Văn T và Lê Xuân H1 có quyền kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật hoang dã số 125/2024/HS-ST

Số hiệu:125/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;