TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 38/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BÁN THUỐC
Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 18/2024/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:
Trần Thị Mộng L, sinh ngày 22 tháng 3 năm 1995, tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Khu phố T, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Dược sỹ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh H, sinh năm 1952 và bà Đào Thị T, sinh năm 1958; chồng: Trần Văn V, sinh năm 1994 và có 01 con sinh ngày 02/7/2023; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Cháu Phan Hoàng A (chết).
Đại diện hợp pháp cho bị hại có:
1- Ông Phan Thanh T1, sinh năm 1988 (có mặt).
Địa chỉ: Khu phố M, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.
2- Bà Hoàng Thị N, sinh năm 1996 (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố T, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định. Là cha, mẹ cháu Phan Hoàng A làm đại diện.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Đào Thị N1, sinh năm 1983 (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố M, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.
- Người làm chứng:
1- Nguyễn Thị P, sinh năm 1964 (có mặt).
2- Ông Phan Đ, sinh năm 1963 (có mặt).
Đồng trú tại: Khu phố M, phường H, thị xã hoài N, tỉnh Bình Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bà Đào Thị N1 (sinh năm 1983, trú ở khu phố M, phường H, thị xã H) là chủ cơ sở kinh doanh quầy thuốc Thuận P1 (địa chỉ ở khu phố M, phường H, thị xã H), được Phòng Tài chính - Kế hoạch thị xã H cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 35C8018131 và Giám đốc Sở Y tế tỉnh B cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược số 917/ĐKKDD-BĐ ngày 25/5/2020. Đồng thời, Đào Thị N1 cũng là người quản lý chuyên môn của quầy thuốc Thuận Phát theo Giấy chứng nhận số 1695/GPP ngày 25/5/2020 của Sở Y tế tỉnh B. Ngày 29/5/2020, N1 ký Hợp đồng lao động với Trần Thị Mộng L để bán thuốc tại quầy thuốc Thuận Phát theo đúng quy định của pháp luật.
Khoảng 08 giờ 40 phút ngày 14/01/2023, bà Nguyễn Thị P (sinh năm 1964, trú ở khu phố M, phường H, thị xã H) đến quầy thuốc Thuận P1 để mua thuốc cho mình và cháu Phan Hoàng A (sinh năm 2017, trú ở khu phố T, phường H, thị xã H). Khi gặp L, bà P trình bày về triệu chứng bệnh của cháu A là sổ mũi, ho và được L bán các loại thuốc để điều trị cho cháu A, cụ thể như sau:
- Bifumax 500mg sử dụng ½ viên/lần;
- Prednisone Apo 5mg sử dụng 01 viên/lần;
- Alpha chymotrypsin 4,2mg sử dụng 01 viên/lần;
- Chlorpheniramin 4mg sử dụng 01 viên/lần;
- Sr Eugica 5ml gói sử dụng 01 gói/lần.
Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 14/01/2023, bà P lấy các loại thuốc mà L đã bán như trên cho cháu A uống. Khoảng 05 phút sau, cháu A nôn mửa, người tím tái, ngứa toàn thân và hôn mê nên được gia đình đưa đến Trạm Y tế phường H rồi chuyển đến Bệnh viện Đ1 để cấp cứu nhưng cháu A đã tử vong lúc 10 giờ 30 phút cùng ngày.
Theo Kết luận giám định độc chất số 259/282-287/23/KLGDĐC-PYQG ngày 13/3/2023 của P3 tại TP H: Mẫu phủ tạng và máu của cháu Phan Hoàng A có tìm thấy C, P2, C1; mẫu vật chứng có tìm thấy C, P, C1.
Theo Bản Kết luận giám định Pháp y về tử thi số 15/2023/PY-TT ngày 14/4/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh B: Cháu Phan Hoàng A chết do sốc phản vệ.
Theo Kết luận giám định tử thi qua hồ sơ số 39/KLTTHS-PYQG ngày 20/7/2023 của V1: “Nguyên nhân dẫn tới sốc phản vệ của Phan Hoàng A là do phản ứng quá mức với thuốc điều trị gây suy tuần hoàn, suy hô hấp cấp dẫn đến tử vong. Các thuốc điều trị đều có thể gây ra sốc phản vệ. Tuy nhiên, kháng sinh C có khả năng gây sốc phản vệ cao nhất trong các loại thuốc được tìm thấy trong mẫu máu và phủ tạng của Phan Hoàng A”.
Về việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H đã tạm giữ số thuốc còn lại mà Trần Thị Mộng L đã bán để điều trị bệnh cho cháu Phan Hoàng A. Số thuốc này đã được giám định và hủy mẫu sau giám định.
Bản cáo trạng số: 22/CT-VKS ngày 05 tháng 02 năm 2024, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Trần Thị Mộng L về tội“Vi phạm quy định về bán thuốc” theo điểm a khoản 1 Điều 315 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Mộng L khai nhận bản thân bị cáo có đủ điều kiện để đứng bán thuốc tại quầy thuốc T. Khoảng 08 giờ 40 phút ngày 14/01/2023, Trần Thị Mộng L có bán cho bà Nguyễn Thị P 03 ngày thuốc điều trị bệnh cho cháu Phan Hoàng A gồm các loại thuốc: Bifumax 500mg sử dụng ½ viên/lần; Prednisone Apo 5mg sử dụng 01 viên/lần; Alpha chymotrypsin 4,2mg sử dụng 01 viên/lần; Chlorpheniramin 4mg sử dụng 01 viên/lần; Sr Eugica 5ml gói sử dụng 01 gói/lần nhưng không có đơn thuốc. Đến khoảng 09 giờ 30 phút ngày 14/01/2023 bà P cho cháu A uống thuốc và khoảng 05 phút cháu A bị sốc thuốc và dẫn đến tử vong.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của người đại diện hợp pháp cho bị hại các khoản chi phí với số tiền 250.700.000 đồng.
Quá trình điều tra và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị cáo Trần Thị Mộng L và bà Đào Thị N1 đã bồi thường cho gia đình bị hại 50.000.000 đồng và nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn số tiền 100.000.000 đồng để khắc phục hậu quả.
Đại diện hợp pháp cho bị hại trình bày: Về trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị bị cáo phải bồi thường cho gia đình bị hại các khoản:
- Khoản mai táng phí và các chi phí khác: 38.700.000 đồng.
- Tiền xây mộ: 32.000.000 đồng - Khoản tổn thất về tinh thần: 100 tháng lương cơ sở x 1.800.000 đồng = 180.000.000 đồng.
Tổng cộng các khoản: 250.700.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội: Giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo Trần Thị Mộng L. Căn cứ vào hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi; căn cứ vào nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thị Mộng L phạm tội “Vi phạm quy định về bán thuốc”.
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 315; điểm b, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị Mộng L mức án từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
- Về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự thỏa thuận của các bên, buộc bị cáo Trần Thị Mộng L phải bồi thường cho gia đình bị hại cháu Phan Hoàng A số tiền 250.700.000 đồng, được trừ 50.000.000 đồng đã bồi thường trước, còn tiếp tục phải bồi thường số tiền 200.700.000 đồng.
T2 tạm giữ số tiền mà bị cáo Trần Thị Mộng L đã nộp 100.000.000 đồng theo biên lai số 0003957 ngày 10/4/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn để đảm bảo thi hành án.
- Về vật chứng: Đã xử lý xong.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin lỗi gia định bị hại, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo được hưởng án treo, bị cáo đang nuôi con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp cho bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa bị cáo Trần Thị Mộng L khai nhận: Bị cáo được đào tạo về ngành Dược, bị cáo có bằng tốt nghiệp Trung cấp chuyên nghiệp ngành Dược và bằng tốt nghiệp Cao đẳng ngành Dược. Ngày 29/5/2020, bà Đào Thị N1 và bị cáo L có ký Hợp đồng lao động, bị cáo L có nhiệm vụ đứng bán thuốc tại quầy thuốc Thuận P1 là đúng quy định tại Thông tư số 02/2018/TT-BYT ngày 22/01/2018 của Bộ Y đồng thời bị cáo L phải có nghĩa vụ chấp hành nội quy, quy chế của quầy thuốc và các quy định về kinh doanh, mua bán thuốc. Ngày 14/01/2023, bà Nguyễn Thị P mua thuốc cho cháu Phan Hoàng A nhưng không có đơn thuốc, lúc này bà Đào Thị N1 chủ quầy thuốc Thuận Phát đi chợ không có mặt tại quầy thuốc, bị cáo không thông báo cho bà N1 biết trường hợp người mua thuốc nhưng không có đơn thuốc để bà N1 giải quyết mà bị cáo tự ý bán các loại thuốc Bifumax 500mg (hoạt chất Cefuroxim, hàm lượng 500mg); Prednisone Apo 5mg (hoạt chất Prednisone); Alpha chymotrypsin 4,2mg (hoạt chất Alpha chymotrypsin), đây là những loại thuốc không được bán nếu không có đơn thuốc. Sau khi cháu A sử dụng thuốc theo chỉ dẫn của bị cáo L, cháu A bị phản ứng quá mức với thuốc điều trị gây suy tuần hoàn, suy hô hấp dẫn tới sốc phản vệ và cháu A tử vong. Hành vi đó của bị cáo L đã vi phạm “Những hành vi bị nghiêm cấm” là “Bán lẻ thuốc kê đơn mà không có đơn thuốc” được quy định tại điểm h khoản 5 Điều 6 Luật Dược số 105/2016/QH13 do Quốc Hội ban hành ngày 06/4/2016. Do đó, hành vi của bị cáo Trần Thị Mộng L đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về bán thuốc” phạm vào điểm a khoản 1 Điều 315 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn truy tố là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn khám chữa bệnh bằng việc bán thuốc không có đơn, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý. Do đó, cần xử phạt các bị cáo một mức án phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:
- Về nhân thân: Bị cáo Trần Thị Mộng L chưa có tiền án, tiền sự nên bị cáo có nhân thân tốt.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trần Thị Mộng L không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình;
bị cáo đã khắc phục hậu quả được 150.000.000 đồng cho gia đình bị hại; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang mang thai; hiện tại bị cáo đang nuôi con nhỏ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
[5] Về quyết định hình phạt: Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, bị cáo có nhân thân tốt, có nghề nghiệp ổn định, có nơi cư trú rõ ràng và hiện đang nuôi con nhỏ mới 09 tháng tuổi. Xét thấy bị cáo L có đủ điều kiện được hưởng án treo được quy định tại Điều 2 Nghị quyết 02/VBHN-TANDTC ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo và không thuộc các trường hợp không cho hưởng án treo quy định tại Điều 3 của Nghị quyết này nên không cần buộc bị cáo phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội; xử cho bị cáo hưởng hình phạt tù có điều kiện, ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục và bị cáo thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo qui định của Luật Thi hành án hình sự.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Nguyên nhân cháu Phan Hoàng A chết là do bị cáo Trần Thị Mộng L bán thuốc không có đơn thuốc, tại phiên tòa đại diện hợp pháp cho bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường các khoản:
- Khoản mai táng phí và các chi phí khác: 38.700.000 đồng.
- Tiền xây mộ: 32.000.000 đồng - Khoản tổn thất về tinh thần: 100 tháng lương cơ sở x 1.800.000 đồng = 180.000.000 đồng.
Tổng cộng các khoản: 250.700.000 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Mộng L đồng ý bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 250.700.000 đồng. Xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên không trái với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Buộc bị cáo Trần Thị Mộng L phải bồi thường cho gia đình bị hại cháu Phan Hoàng A số tiền 250.700.000 đồng nhưng được trừ số tiền đã bồi thường trước 50.000.000 đồng, bị cáo còn phải bồi thường số tiền 200.700.000 đồng. Số tiền trên do ông Phan Thành T3 và bà Hoàng Thị N đại diện nhận.
Tuyên tạm giữ số tiền mà bị cáo Trần Thị Mộng L đã nộp 100.000.000 đồng theo biên lai số 0003957 ngày 10/4/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn để đảm bảo thi hành án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
[7] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.
[8] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn đề nghị áp dụng pháp luật, mức hình phạt và trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bị cáo Trần Thị Mộng L là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[9] Đào Thị N1 là chủ cơ sở kinh doanh quầy thuốc Thuận P1 đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và có chứng chỉ hành nghề, chịu trách nhiệm về chuyên môn. Vào ngày 14/01/2023, L bán các loại thuốc thuộc danh mục kê đơn thì N1 không có mặt nhưng không ủy quyền cho người có chứng chỉ hành nghề dược phù hợp là chưa thực hiện đúng khoản 2 Điều 31 Luật Dược năm 2016. Tuy nhiên, khi bán các loại thuốc này thì L không thông báo cho N1 biết. Việc N1 vắng mặt tại cơ sở bán lẻ thuốc T vào ngày 14/01/2023 không phải là nguyên nhân trực tiếp gây hậu quả làm Phan Hoàng A chết. Do đó, hành vi của Đào Thị N1 không có dấu hiệu của tội phạm hình sự mà vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh nghề dược. Công an thị xã H đã chuyển hồ sơ vi phạm của Đào Thị N1 cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý vi phạm hành chính.
[10] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135; 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, cần buộc bị cáo Trần Thị Mộng L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 315; điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 591 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Mộng L phạm tội “Vi phạm quy định về bán thuốc”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo Trần Thị Mộng L 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 17/4/2024.
Giao bị cáo Trần Thị Mộng L cho Ủy ban nhân dân phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Trần Thị Mộng L thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về bồi thường thiệt hại:
Buộc bị cáo Trần Thị Mông L1 phải bồi thường cho gia đình bị hại cháu Phan Hoàng A số tiền 200.700.000 đồng. Số tiền trên do ông Phan Thanh T1 và bà Hoàng Thị N đại diện nhận.
Tuyên tạm giữ số tiền mà bị cáo Trần Thị Mộng L đã nộp 100.000.000 đồng theo biên lai số 0003957 ngày 10/4/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn để đảm bảo thi hành án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.
5. Về án phí:
5.1 Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Thị Mộng L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
5.2 Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Thị Mộng L phải chịu 5.035.000 đồng (năm triệu không trăm ba mươi lăm nghìn đồng). .
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
7. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tội vi phạm quy định bán thuốc số 38/2024/HS-ST
Số hiệu: | 38/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về