TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TỈNH ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 219/2022/HS-PT NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH AN TOÀN Ở NƠI ĐÔNG NGƯỜI
Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2022/TLPT-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người” Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2021/HS-ST ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1734/2022/QĐXXPT-HS ngày 26 tháng 5 năm 2022.
Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Quang T, sinh năm 1992 tại Hà Nội; nơi ĐKHKTT: Thành phố Hà Nội; chỗ ở hiện nay: thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Giám đốc Công ty TNHH quốc tế A; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Quang Q và con bà Nguyễn Thị Hồng T; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn; có vợ tên là Nguyễn Thị Phương A và có 03 con, con lớn sinh năm 2016 và con nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Ngô Văn D, Chi nhánh Văn phòng luật sư Đ tại Đà Nẵng; địa chỉ: thành phố Đà Nẵng, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty TNHH Quốc tế A (sau đây gọi tắt là Công ty A) có địa chỉ tại thành phố Đà Nẵng. Ngày 29/4/2020 Công ty A thành lập thêm 01 cơ sở tại địa chỉ số 222 đường P, thành phố Đà Nẵng. Công ty A do hai thành viên góp vốn thành lập là ông Nguyễn Quang T và bà Nguyễn Thị Phương A; ngành nghề kinh doanh: Dịch vụ tắm hơi, massage và các dịch vụ tăng cường sức khỏe tương tự (trừ hoạt động thể thao).
Cuối tháng 4/2021 thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Nguyễn Quang T biết tình hình dịch bệnh Covid-19 đang bùng phát trở lại, biết rõ trường hợp anh N.V.Đ (sinh năm 1993, trú tại tỉnh Hà Nam) đã hoàn thành cách ly tập trung tại Đà Nẵng khi nhập cảnh từ Nhật Bản về và ngày 22/4/2021 anh Đ từ Đà Nẵng trở về địa phương cách ly tại nhà, sau đó được phát hiện dương tính Sars-Cov-2. Từ đó, T ý thức hơn trong việc phòng chống dịch Covid-19 cho bản thân cũng như các nhân viên của Công ty A bằng cách trang bị tại Công ty các thiết bị phòng chống dịch như máy phun khử khuẩn, đồng thời nhắn tin trên trang Messenge “Thẩm mỹ Quốc tế A” yêu cầu tất cá nhân viên của Công ty khi làm việc tại Công ty, khi đi ngoài đường, khi tiếp xúc với đồng nghiệp, với khách hàng đều phải đeo khẩu trang, thực hiện nghiêm yêu cầu 5K mà Chính phủ, Bộ Y tế và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quy định.
Vào tối ngày 02/5/2021 Nguyễn Quang T và Nguyễn Thị Phương A đã triệu tập 36 nhân viên của Công ty (trong đó có chị Nguyễn Thị Tuyết D, sinh năm 1991; trú tại thành phố Đà Nẵng) đến tham dự cuộc họp Công ty được tổ chức tại phòng họp tầng 5 của tòa nhà tại địa chỉ 222 đường P, thành phố Đà Nẵng. Nội dung cuộc họp gồm 04 phần: Phát thưởng, khen tặng lễ 30/4 - 01/5 do Nguyễn Thị Phương A chủ trì; giới thiệu về sản phẩm mới do Nguyễn Thị Phương A chủ trì; chương trình khuyến mãi tháng 5/2021 do Nguyễn Thị Hồng A chủ trì; truyền lửa cho nhân viên do Nguyễn Quang T chủ trì.
Trước khi vào cuộc họp, tất cả những người tham dự cuộc họp đều đeo khẩu trang để phòng chống dịch Covid-19. Khi đến nội dung truyền lửa, mục đích để cho nhân viên cảm nhận hết nội dung mà T sẽ truyền lửa, T muốn nhân viên đọc thật to mục tiêu công việc nhiều lần để thấm mệt, sau đó T sẽ mở nhạc và nói trầm xuống thì các nhân viên sẽ cảm nhận được nội dung mà T sẽ truyền lửa. Khi đọc mục tiêu và hô khẩu hiệu, các nhân viên vẫn đeo khẩu trang nên không thể đọc và hô to được. Thấy vậy, T yêu cầu tất cả các nhân viên trong cuộc họp bỏ khẩu trang ra bằng lời nói: “Các bạn đọc mục tiêu mà đeo khẩu trang à” và yêu cầu mọi người đọc to mục tiêu “Tôi nhất định làm được” nhiều lần. Nghe vậy, các nhân viên tham gia họp đã bỏ khẩu trang rồi đọc rõ mục tiêu và hô to “Tôi nhất định làm được” nhiều lần theo yêu cầu của T trong khoảng thời gian từ 05 đến 10 phút. Phần truyền lửa này được chị Nguyễn Thị Lệ D (Phó Giám đốc Công ty A) tự ghi hình có âm thanh và gửi vào nhóm ban lãnh đạo của Công ty A. Sau đó đoạn clip này được đưa lên mạng xã hội.
Sau khi cuộc họp nêu trên diễn ra thì tại Công ty A địa chỉ 222 đường P, thành phố Đà Nẵng đã xuất hiện chùm ca bệnh dịch Covid-19. Tại Văn bản số 2146/SYT- NYV ngày 24/5/2021 của Sở Y tế thành phố Đà Nẵng trả lời về tình hình diễn biến dịch xuất phát từ Công ty A như sau:
- Ca bệnh đầu tiên: Ngày 07/5/2021 (BN 3131 Nguyễn Thị Tuyết D) đến khám bệnh tại Bệnh viện Đa khoa Gia đình chiều ngày 06/5/2021).
- Ca bệnh Covid-19 được ghi nhận đến ngày 23/5/2021: 65 ca, trong đó: Ca bệnh ghi nhận tại Đà Nẵng là 54 ca (nhân viên Công ty A: 31 ca; người tiếp xúc gần với nhân viên Công ty A: 23 ca); ca bệnh ghi nhận tại địa phương khác: 11 ca (Thừa Thiên Huế: 04 ca; Quảng Nam: 02 ca; Quảng Trị: 03 ca; Đắk Lắk: 02 ca), trong đó nhân viên Công ty A: 07 ca; người tiếp xúc gần nhân viên Công ty A: 04 ca.
Tại Văn bản số 956 ngày 20/7/2021 của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố Đà Nẵng trả lời kết quả giải trình tự gen các ca bệnh Covid-19 xuất phát từ cuộc họp vào ngày 02/5/2021 tại Công ty A thuộc chủng B. 1.1.7.
Ngày 24/6/2021, Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường nơi tổ chức cuộc họp ngày 02/5/2021 là phòng họp tại tầng 5 tòa nhà số 222 đường P, thành phố Đà Nẵng có kích thước (6,7 x 8,2m), trần thạch cao cách nền gạch 2,78m, giữa trần thạch cao là máy điều hòa trần, phòng họp chỉ có 01 cửa ra vào ở hướng Tây, kích thước (1,2 x 2,2m). Tại góc phòng họp hướng Đông Bắc có một phòng kho hình thang vuông kích thước hai đáy là 1,1m và 2m, hai cạnh hình thang là 1,4m và 1,5m. Trong phòng có đặt một bục sân khấu có kích thước (4 x 1,5 x 0,32m), bên ngoài được bọc vải nhưng màu đỏ, bục này được đặt sát tường phía Bắc, cách tường phía Tây 2m. Theo lời khai của Nguyễn Quang T, cuộc họp này tổ chức từ khoảng 20 giờ 30 phút đến 22 giờ 15 phút ngày 02/5/2021, có sự tham gia của khoảng 40 người là nhân viên Công ty A.
Tại Văn bản số 3469/SYT-NVY ngày 31/7/2021 của Sở Y tế thành phố Đà Nẵng xác định: Việc tập trung khoảng 40 người trong một căn phòng không có ngăn cách giữa người với người trong quá trình sinh hoạt, làm việc với những đặc điểm như trên cho thấy không đảm bảo yếu tố “khoảng cách” và “không tập trung” trong quy định 5K của Bộ Y tế có thể lây nhiễm vi rút Sars-Cov-2.
Tại Bản giám định số 588/C09C-Đ1 ngày 19/5/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận đối với file video chứa nội dung ghi hình cuộc họp ngày 02/5/2021 tại Công ty A như sau: Không phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh của tập tin video gửi giám định. Nội dung hội thoại trong tập tin gửi giám định thể hiện ở giây thứ 25 Nguyễn Quang T có nói nội dung:
“Các bạn đọc mục tiêu mà đeo khẩu trang à” và yêu cầu mọi người hô to mục tiêu “Tôi nhất định làm được” nhiều lần.
Về thiệt hại xảy ra:
1. Ngày 11/9/2021, Sở Y tế thành phố Đà Nẵng có Văn bản số 4270 xác định tổng số tiền thiệt hại xảy ra tại thành phố Đà Nẵng liên quan Công ty A là: 8.388.827.240 đồng, cụ thể: Chi phí điều trị thực tế các bệnh nhân Covid-19: 2.580.972.701 đồng; chi phí cách ly đối với trường hợp F1: 1.687.531.300 đồng; chi phí tổ chức truy vết: 4.031.530.500 đồng; chi phí vận chuyển các bệnh nhân: 88.792.739 đồng.
2. Ngày 06/8/2021, Sở Y tế tỉnh Quảng Trị có Văn bản số 137 xác định Quảng Trị có 03 bệnh nhân Covid-19 liên quan đến nhân viên Công ty A, trong đó có 01 nhân viên A và người tiếp xúc gần với nhân viên A: 02 ca. Tổng thiệt hại là: 864.486.689 đồng, cụ thể: Chi phí điều trị thực tế các bệnh nhân Covid-19: 151.306.863 đồng; chi phí cách ly: 490.315.726 đồng; chi phí truy vết: 86.154.100 đồng; chi phí phong tỏa khu vực thôn Húc Ván Ri từ ngày 10/5/2021 đến ngày 19/5/2021: 42.370.000 đồng; chi phí phong tỏa khu vực Mỹ Chánh, Hải Chánh, Hải Lăng từ ngày 08/5/2021 đến ngày 22/5/2021: 94.340.000 đồng.
3. Ngày 16/7/2021, Sở Y tế tỉnh Thừa Thiên Huế có Văn bản số 2779 xác định tại tỉnh Thừa Thiên Huế có 04 bệnh nhân Covid-19 liên quan đến nhân viên Công ty A, trong đó nhân viên A: 03 ca và người tiếp xúc gần với nhân viên A: 01 ca. Tổng thiệt hại là: 1.460.649.632 đồng, cụ thể: Chi phí điều trị cho bệnh nhân tại Trung tâm Y tế huyện Phong Điền: 79.913.972 đồng; chi phí điều trị cho bệnh nhân tại Trung tâm Y tế huyện Phú Lộc: 154.289.660 đồng; chi phí tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh: 1.226.446.000 đồng (gồm: Chi phí xét nghiệm Covid-19: 1.127.646.000 đồng; kinh phí các đội cơ động tham gia phục vụ công tác phòng chống dịch: 98.800.000 đồng).
4. Ngày 18/7/2021, Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk có Văn bản số 2512 xác định tại tỉnh Đắk Lắk có 02 bệnh nhân Covid-19 liên quan đến nhân viên Công ty A, trong đó có 01 ca là nhân viên Công ty A và người tiếp xúc gần với nhân viên A là 01 ca; Tổng thiệt hại là: 279.724.357 đồng, cụ thể: Chi phí điều trị: 20.672.357 đồng; lấy mẫu xét nghiệm 218.732.000 đồng; chi phí sử dụng cho người cách ly: 40.320.000 đồng.
5. Ngày 08/7/2021, Sở Y tế tỉnh Quảng Nam có Văn bản số 1645 xác định tại tỉnh có 02 bệnh nhân Covid-19 liên quan Công ty A. Tổng thiệt hại là: 829.614.820 đồng, cụ thể: Chi phí điều trị: 25.068.820 đồng; chi phí cách ly đối với các trường hợp F1: 699.546.000 đồng; chi phí truy vết: 105.000.000 đồng.
Tổng số tiền thiệt hại liên quan đến chùm ca bệnh dịch Covid-19 tại số 222 đường P, thành phố Đà Nẵng là 11.823.302.738 đồng (mười một tỷ, tám trăm hai mươi ba triệu, ba trăm lẻ hai nghìn, bảy trăm ba mươi tám đồng).
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
1. Tuyên bố: Nguyễn Quang T phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người”
2. Căn cứ vào điểm C khoản 3 Điều 295; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, án phí, quyền kháng cáo.
Ngày 11/01/2022, bị cáo Nguyễn Quang T kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Quang T trình bày giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người” theo điểm C khoản 3 Điều 295 Bộ luật Hình sự và xử phạt 03 (ba) năm tù là có căn cứ, đúng tội. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, do đó đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quang T trình bày tranh tụng: Thống nhất về tội danh và điều luật áp dụng xét xử đối với bị cáo T. Bị cáo Nguyễn Quang T thừa nhận hành vi phạm tội nên đã tích cực giúp đỡ các cơ quan chức năng trong việc điều trị nhân viên bị nhiễm covid nhằm sớm khống chế dịch; bị cáo thành khẩn khai báo, khắc phục hậu quả, lỗi vô ý, có hoàn cảnh khó khăn; đặc biệt hiện nay tình hình dịch bệnh cũng đã ổn định, không còn đe dọa như trước nữa. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo và cho bị cáo hưởng án treo. Bị cáo thống nhất phần tranh tụng của luật sư.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
Ngày 11/01/2022, bị cáo Nguyễn Quang T kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2021/HS-ST ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xin hưởng án treo. Như vậy, kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn luật định. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo:
[2.1] Hành vi phạm tội:
Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Quang T nhận tội, thể hiện: Nguyễn Quang T là Giám đốc Công ty TNHH quốc tế A có địa chỉ hoạt động tại số 593 đường Điện Biên Phủ và số 222 đường P, thành phố Đà Nẵng. Vào tối ngày 02/5/2021, tại Công ty TNHH quốc tế A tổ chức cuộc họp có gần 40 nhân viên của Công ty tại tầng 5 số 222 đường P, thành phố Đà Nẵng; phòng họp có kích thước 6,7m x 8,2m tương đương 54,94m2, lúc này mọi người có đeo khẩu trang phòng chống dịch Covid-19. Khi đến phần nội dung truyền lửa do Nguyễn Quang T chủ tọa cuộc họp thì T yêu cầu các nhân viên dự họp tháo khẩu trang để hô to và nhiều lần khẩu hiệu “Tôi nhất định làm được” trong khoảng thời gian từ 05 đến 10 phút. Hậu quả sau cuộc họp Công ty TNHH quốc tế A xuất hiện chùm ca bệnh Covid-19 và lây lan đến 5 tỉnh, thành phố với tổng cộng ca bệnh là 65 người. Từ đó 5 tỉnh, thành phố đã phát sinh chi phí phòng, chống dịch như truy vết, cách ly, phong tỏa, xét nghiệm, điều trị với tổng chi phí là 11.823.302.738đ. Như vậy, lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Quang T phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với những tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng thu thập có tại hồ sơ vụ án. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người” theo điểm C khoản 3 Điều 295 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2.2] Về mức hình phạt:
Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Quang T đã vi phạm, xâm phạm các quy định về an toàn ở nơi đông người và đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của công dân, tài sản của tổ chức, công dân. Cụ thể là vi phạm về yếu tố “khẩu trang”, “khoảng cách”, “không tập trung” trong quy định 5K của Bộ y tế. Mặc dù bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, nhưng căn cứ vào tính chất vụ án, tình hình phòng chống dịch trên địa bàn các tỉnh, thành phố khu vực miền Trung nói riêng và toàn quốc nói chung, từ đó Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định, đánh giá và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là đúng pháp luật và xử phạt bị cáo 03 (ba) năm tù là thỏa đáng. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người” Căn cứ điểm C khoản 3 Điều 295; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu 200.000đ.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 219/2022/HS-PT về tội vi phạm quy định an toàn ở nơi đông người
Số hiệu: | 219/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về