Bản án 224/2021/HS-ST về tội vi phạm quy định an toàn lao động

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 224/2021/HS-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH AN TOÀN LAO ĐỘNG

Vào ngày 27/12/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố H xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 227/2021/HSST ngày 23/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2021/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 56/221/QĐST – HS ngày 15 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hữu S, sinh năm 1960 tại ĐA, H. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm x, thôn CĐ, xã HB, huyện ĐA, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu C (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, vợ: Nguyễn Thị T1, có 04 con, lớn sinh năm 1982, nhỏ sinh năm 1998; TATS: Danh, chỉ bản số 376 do Công an huyện Đ lập ngày 28/6/2021 và Trích lục tiền án, tiền sự số 415041/2021/PV06 ngày 10/7/2021 thể hiện bị cáo không có tiền sự và tiền án. Nhân thân: Không có tiền án, tiền sự đã được xóa..

Bị cáo áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Anh Lê Văn Đ, sinh năm 1998 (đã chết ngày 25/8/2020); Hộ khẩu thường trú: Thôn NB, xã ST, huyện LT, tỉnh Q.

Người đại diện theo pháp luật của anh Đ:

1. Ông Lê Văn C1, sinh năm 1969.

2. Bà Lê Thị T1, sinh năm 1971.     

Cùng có hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn NB, xã ST, huyện LT, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt.

3. Anh Triệu Văn X, sinh năm 1988.

Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn AS, xã NM, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt.

4. Anh Lê Văn T2, sinh năm 1976. Vắng mặt tại phiên tòa.

5. Ông Lê Văn Q, sinh năm 1948. Vắng mặt tại phiên tòa.

6. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1937. Vắng mặt tại phiên tòa.

7. Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1954. Vắng mặt tại phiên tòa.

Cùng có hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn CĐ, xã HB, huyện ĐA, thành phố H.

8. Anh Trần Đ T3, sinh năm 1986. Vắng mặt tại phiên tòa.

Hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố TX 5, phường XĐ, quận BTL, thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng công khai tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16h30’ ngày 25/8/2020, anh Hà Mạnh C, sinh năm: 1978; Nơi cư trú: Tập thể xx, xã HB, huyện ĐA, thành phố H, anh Nguyễn Lập V, sinh năm:

1985; hộ khẩu thường trú: thôn NA, xã PC, huyện ĐT, tỉnh TN, anh Đinh Văn Z, sinh năm: 1986; hộ khẩu thường trú: thôn B P, xã KK, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên, anh Hoàng Văn G, sinh năm: 1987; hộ khẩu thường trú: thôn CH, xã NM, huyện ĐT, tỉnh TN, đều là công nhân và cùng đang làm tại xưởng nhà Nguyễn Hữu S tại thôn CĐ, xã HB, huyện ĐA, thì nghe thấy tiếng nổ lớn, kèm theo khói, bụi phía trong xưởng nhà ông S. Thấy vậy, anh C, anh V, anh Z, anh G chạy vào phát hiện anh Triệu Văn X, sinh năm: 1988; hộ khẩu thường trú: thôn CH, xã NM, huyện ĐT, tỉnh Thái Nguyên) hai chân bị dập nát, anh Lê Văn Đ, sinh năm: 1998; HKTT: Thôn NB, xã ST, huyện LT, tỉnh Q, bị tử vong tại chỗ. Các anh đã trình báo chính quyền địa phương.

Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra làm rõ: Năm 2011, Nguyễn Hữu S mở xưởng cơ khí và hoạt động sản xuất tại nhà ở của S tại thôn CĐ, xã HB, huyện ĐA; Công việc chủ yếu là khò, hàn làm các cột thu, phát sóng. Quá trình sản xuất, kinh doanh S không làm thủ tục đăng ký kinh doanh. S thuê các anh Triệu Văn X, sinh năm: 1988; hộ khẩu thường trú: CH, NM, ĐT, Thái Nguyên, anh Lê Văn Đ, sinh năm: 1998; hộ khẩu thường trú: Thôn NB, xã ST, huyện LT, tỉnh Q, anh Hà Mạnh C, anh Nguyễn Lập V, anh Đinh Văn Z và anh Hoàng Văn G làm công việc khò, hàn để làm các cột thu phát sóng tại xưởng. Do công việc không ổn định nên S và những người làm thuê không ký hợp đồng lao động mà chỉ thỏa thuận bằng miệng với nhau về tiền công, ăn, ở. Trước khi nhận người vào xưởng làm việc, S không kiểm tra chứng chỉ, bằng cấp của những người làm thuê mà chỉ kiểm tra thực tế xem có biết làm hay không rồi nhận làm. Quá trình làm việc, S là người trực tiếp chỉ đạo, giám sát công việc ở xưởng và trả lương cho công nhân; không tổ chức tập huấn an toàn lao động, phòng cháy chữa cháy cho công nhân làm thuê.

Khoảng 13h30’ ngày 25/8/2020, các anh Hạ Mạnh C, Nguyễn Lập V, Đinh Văn Z, Hoàng Văn G, Triệu Văn X và anh Lê Văn Đ làm việc tại xưởng. Anh C, V, Z, G làm công việc hàn cột thu, phát sóng tại xưởng bên ngoài cổng nhà S còn anh X, anh Đ làm công việc khò, uốn các thanh sắt theo khuôn mẫu tại xưởng bên trong nhà S.

Khoảng 15h15’ cùng ngày, bình oxy tại xưởng trong nhà S (nơi anh Đ, anh X làm việc) hết khí oxy nên anh Triệu Văn X đi ra vị trí để bình oxy, bình gas phục vụ công việc khò, hàn ở xưởng bên ngoài cổng, giáp tường cổng nhà S, tháo bình oxy đã sử dụng rồi một mình vận chuyển (lăn) bình oxy vào trong xưởng, nơi anh X, anh Đ làm việc, giao cho anh Đ thay vào bình oxy đã hết để tiếp tục công việc; anh Nguyễn Lập V điều khiển xe ba gác đến Công ty TNHH khí công nghiệp và oxy y tế TL (gọi tắt là công ty TL) mua 03 bình oxy mới để thay thế, dùng dần. Khoảng 16h30’ cùng ngày, anh C, V, Z, G đang làm thì nghe thấy tiếng nổ lớn, kèm theo khói, bụi phía trong xưởng nhà S. Thấy vậy, Mọi người chạy vào trong, phát hiện anh X hai chân bị dập nát, kêu cứu; anh Đ tử vong, thi thể bị phân khúc làm đôi. Anh X bị thương được Trung tâm cấp cứu 115 đến đưa anh X đến Bệnh viện E cấp cứu.

Vật chứng tạm giữ:

- Tại hiện trường: 01 (một) phần đồng hồ của bình oxy; 01(một) mỏ khò kim loại; 02 (hai) ống dây dẫn màu xanh, đỏ bám dính nhau; 01 (một) mẫu đất, cát thu tại vị trí để bình oxy; 03 (ba) khóa van của bình gas bị cong vênh, nứt rách kim loại; 01(một) mảnh kim loại sơn màu xanh ghi chữ “X12632”, trên van ghi chữ “SIAN – QF – 2C” là mảnh vỡ của bình oxy và 01 (một) bình gas bằng kim loại, sơn màu xanh bị rách, thủng kim loại, biến dạng, bám muội khói đen - Tại nhà Nguyễn Hữu S: 01 (một) bình khí oxy đã hết khí và 01(một) ổ cứng lưu giữ video do camera tại xưởng nhà Nguyễn Hữu S ghi lại là tài sản của Nguyễn Hữu S. Cơ quan công an đã tiến hành giám định bình khí và trích xuất video ra UBS.

- Tại công ty TL: 02 (hai) bình khí oxy là tài sản của Công ty TL, cơ quan công an đã giám định xong.

Vụ cháy, nổ bình khí gây ra các thiệt hại, cụ thể ;

- Gia đình Nguyễn Hữu S bị sập 01 xưởng bằng cột, kèo kim loại, lợp brôximăng diện tích (10x8)m; nhà ở của ông S bị lực tác động, các cửa ra vào bằng kim loại trong tình trạng bị cong vênh; các ô thoáng bị lực tác động làm vỡ kính, khung kim loại rơi rải rác trên nền nhà; nứt vỡ màn hình tivi nhãn hiệu Sony; nứt, vỡ tường nhà vệ sinh, cánh cửa khu vệ sinh bị vỡ, cong vênh kim loại - Bức tường chuồng nuôi gà phía sau của gia đình anh Lê Văn T2, sinh năm 1976; Nơi cư trú: CĐ, HBi, ĐA; là hàng xóm, bị thủng 02 lỗ trên diện (47x25)cm và (20x17)cm; Nhà ở của gia đình anh T2: tầng 1 bị vỡ 01 (một) cửa kính kích thước (1,64x1,32)m; 02 (hai) kính cửa ra vào, mỗi kính có kích thước (1,17x0,44)m; Tầng 2 bị vỡ thủng 01(một) kính cửa sổ kích thước (2,35x0,53)m; 01 (một) kính cửa nhà vệ sinh kích thước (1,92x0,49)m và thủng tường nhà vệ sinh kích thước (28x20)cm; Tầng 3 bị vỡ 01(một) ô kính cửa sổ kích thước (1,34x0,39)m và 01(một) kính cửa ban công kích thước (1,29x0,67)m.

- Tường nhà cấp 4 phía tây của gia đình ông Lê Văn Q, sinh năm 1948; Nơi cư trú: CĐ, HB, ĐA; là hàng xóm, bị nhiều lỗ thủng, hai bộ cửa sổ gồm: khung cửa, cánh cửa làm bằng gỗ bị hư hỏng; mái ngói tại khu vực giáp tường nam; nghiêng mặt về phía tây bị 01 lỗ thủng và vỡ nhiều viên ngói - Nhà bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1937; Nơi cư trú: CĐ, HB, ĐA; là hàng xóm, bị vỡ: 01 (một) ô kính cửa sổ kích thước (1,44x1,4)m.

- Nhà ở của anh Trần Đ T3, sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: TDP TX 5, XĐ, BTL, H; hàng xóm: Tường phía nam bị nứt, đổ tường trên diện (2,5x1,9)m; hư hỏng 01 (một) giường gỗ làm bằng gỗ ép công nghiệp) và 01(một) tủ đứng để quần, áo làm bằng gỗ ép công nghiệp.

- Khu nhà cho thuê trọ của gia đình ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1954; Nơi cư trú: CĐ, HB, ĐA; là hàng xóm, bị hai lỗ thủng trên diện (14x20)cm và (23x21)cm.

Ngày 09/9/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ ra Quyết định trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ công an giám định nguyên nhân cháy, nổ. Ngày 12/10/2020, Viện khoa học hình sự có Bản kết luận giám định số: 6212/C09 – P2, kết luận:

- Trung tâm nổ nằm ở khu vực cách tường bắc khoảng 1,1m, cách tường phía Đông khoảng 6,23m bên trong xưởng cơ khí của gia đình ông Nguyễn Hữu S, có địa chỉ tại thôn CĐ, HB, ĐA, H.

- Nguyên nhân cháy, nổ: Do ngọn lửa của quá trình hàn cắt cháy ngược vào trong bình oxy gây cháy, nổ bình oxy. Sau đó, áp lực của vụ nổ và các mảnh vỡ của vỏ bình oxy (O2) làm vỡ bình gas dẫn đến vụ cháy, nổ nói trên.

Ngày 08/4/2021, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ có công văn số 435/CQĐT – ĐTTH đề nghị Viện khoa học hình sự - Bộ Công an cung cấp đối với vụ việc xảy ra ngày 25/8/2020 tại CĐ, HB, hiện tượng cháy ngược do sự cố kỹ thuật hay do người sử dụng trong quá trình sử dụng bình khí oxy, bình khí gas để khò hàn. Ngày 11/5/2021, Viện khoa học hình sự - Bộ Công an có công văn số:

1120/C09-P2, có ý kiến: Không đủ điều kiện để xác định hiện tượng cháy ngược do sự cố kỹ thuật hay do người sử dụng trong quá trình sử dụng bình khí oxy, bình khí gas để khò hàn.

Ngày 26/8/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ ra Quyết định trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ công an pháp y tử thi làm rõ nguyên nhân chết của anh Lê Văn Đ. Ngày 21/10/2020, Viện khoa học hình sự - Bộ Công an có Bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 5830/C09 - TT1, kết quả giám định chính:

- Tử thi bị đứt lìa cơ thể thành 2 phần bởi vết rách toác da cơ vùng bụng – lưng – thắt lưng, ngoài ra còn một số phần bị dập nát, đứt lìa khỏi cơ thể.

- Trên cơ thể có nhiều vết sây sát, cháy xém, rách da.

- Gãy phức tạp các xương ức, xương sườn hai bên, các đốt sống ngực, lưng, thắt lưng và xương chậu hai bên.

- Hai phổi xẹp, cháy xém, dập rách nhu mô, tụ máu rải rác. Rách bao màng tim bên phải, thượng tâm mạc có các mảng xuất huyết rải rác. Các tạng trong ổ bụng dập nát toàn bộ.

Kết luận: Nguyên nhân tử vong của anh Lê Văn Đ: Chấn thương ngực – bụng – lưng gây đứt lìa cơ thể vùng cột sống thắt lưng, dập nát các tạng.

Đối với thương tích của anh Triệu Văn X:

- Tóm tắt hồ sơ bệnh án số: 2018244 ngày 26/10/2020 của Bệnh viện E, xác định: anh Triệu Văn X vào viện ngày 25/8/2020; ra viện ngày 27/8/2020. Quá trình bệnh lý và diễn biến lâm sàng:

+ Khám: Bệnh nhân lơ mơ, gọi hỏi đáp ứng chậm, da niêm mạc trắng nhợt. Huyết áp 90/60mHg, M 1101/p; Tim T1, T2 nhanh rời rạc, nhỏ khó bắt; Thở nhanh nông, nhịp thở 25l/p. Lông, tóc vùng mặt cháy sém. Lồng ngực khung vững. Bụng mềm, không chướng, cầu bàng quang (-). Khuyết phần mền mặt trước 1/3 cẳng tay phải, vết thương cẳng tay trái khoảng 05cm. Đa vết thương phần mềm vùng đùi do hỏa khí. Hai chi dưới dập nát, lộ xương hai cẳng chân.

+ Điều trị: Phẫu thuật cắt cụt chi: Đoạn 1/3 trên cẳng chân phải; Đoạn sát khớp gối cẳng chân trái.

Phẫu thuật xử lý đa vết thương phần mềm phức tạp: Mặt trước cẳng tay phải; Cẳng tay trái; Mặt ngoài đùi phải; Các vết bỏng nhiệt độ vùng nách và thành ngực trước.

+ Tình trạng khi chuyển viện: Bệnh nhân tỉnh, huyết động ổn định, thở oxy kính, vết thương cắt cụt chi và vết thương bỏng nhiệt thấm dịch.

- Tóm tắt hồ sơ bệnh án của anh Triệu Văn X, ngày 29/10/2020 của Bệnh viện Bỏng Quốc Gia Lê Hữu Trác, xác định: anh Triệu Văn X vào viện ngày 27/8/2020; ra viện ngày 13/10/2020. Quá trình bệnh lý và diễn biến lâm sàng:

Gọi hỏi biết, đau rát tại vết bỏng, thân nhiệt 39,10C, tự thở, tần số 20 lần/phút, SpO2 99%, khám tim – phổi không thấy bất thường, mạch 89 lần/phút, huyết áp 130/78mHg, bụng mềm, bài niệu vàng trong.

Tại chỗ: Tổn thương bỏng 14% (70cm2) độ II, III, IV mặt, tai phải, cổ, ngực, bụng, lưng, hai tay, đùi phải; đã cắt cụt 1/3 trên hai cẳng chân.

Phương pháp điều trị: Truyền dịch, kháng sinh, giảm đau, thay băng, phẫu thuật ghép da, oxy cao áp, phục hồi chức năng Tình trạng ra viện: Toàn trạng bệnh nhân ổn định, tổn thương bỏng khỏi hoàn toàn, vận động các khớp tốt.

Ngày 09/11/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ ra Quyết định trưng cầu Trung tâm pháp y H giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Triệu Văn X. Ngày 16/11/2020, anh X kiên quyết không nhận giấy hẹn của Trung tâm pháp y H để đi giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể; có đơn từ chối giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể.

Ngày 10/9/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ có công văn số: 964/CQĐT-ĐTTH gửi Thanh tra sở Lao động – Thương binh và xã hội H có kết luận thanh tra lao động.

Ngày 31/12/2020, Công an huyện Đ nhận được Biên bản điều tra tai nạn lao động đề ngày 28/12/2020 của Đoàn điều tra tai nạn lao động Thành phố H nêu:

- Nguyên nhân gây ra tai nạn: Ngọn lửa trong quá trình anh Lê Văn Đ dùng bộ hạn cắt bằng bình oxy – gas để khò thanh thép đã cháy ngược vào trong chai khí oxy dẫn tới cháy, nổ chai oxy, mảnh vỡ của chai oxy đã bắn vào bình gas tiếp tục gây nổ bình gas.

- Kết luận về vụ tai nạn: Nạn nhân Lê Văn Đ (tử vong), nạn nhân Triệu Văn X (thương nặng) bị tai nạn trong quá trình lao động khi đang thực hiện công việc, trong thời gian làm việc theo phân công của người sử dụng lao động vì vậy đây là vụ tai nạn lao động.

- Kết luận về những người có lỗi: Ông Nguyễn Hữu S – Chủ cơ sở để xảy ra tai nạn lao động, có lỗi gián tiếp về việc sử dụng lao động làm nghề hàn hơi chưa qua đào tạo về hàn hơi và chưa được huấn luyện an toàn lao động theo quy định (vi phạm quy định tại điểm 4.1 QCVN 17/2013/BLĐTBXH quy chuẩn quốc gia về công tác hàn hơi; Nghị định 44/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 140/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ).

Ngày 08/4/2021, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ có công văn số 434/CQĐT – ĐTTH đề nghị Thanh tra sở Lao động – Thương Binh và Xã hội thành phố H trả lời: Đối với công việc gò hàn có sử dụng bình oxy, bình khí gas có bắt buộc phải sử dụng van chống cháy ngược hay không, những trường hợp nào người sử dụng, người vận hành bắt buộc phải sử dụng van chống cháy ngược.

Ngày 26/4/2021, Thanh tra sở Lao động – Thương Binh và Xã hội thành phố H có công văn số 192/CV-Ttr, có ý kiến: Qua xem xét các văn bản quy phạm pháp luật về an toàn vệ sinh lao động hiện hành và QCVN 17: 2013/BLĐTBXH Quy chuẩn quốc gia về an toàn lao động đối với công việc hàn hơi thì chưa có quy định bắt buộc phải dùng van chống cháy ngược (lắp đặt sau chai oxy) trong quá trình hàn hơi.

Ngày 03/12/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ yêu cầu Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự định giá tài sản bị thiệt hại của gia đình Nguyễn Hữu S, ông Lê Văn T2, ông Lê Văn Q, bà Nguyễn Thị M; ông Nguyễn Hữu L; anh Trần Đ T3.

Ngày 07/12/2020, Hội đồng định giá có Kết luận định giá tài sản số: 505/HĐĐGTS, kết luận: Tài sản bị thiệt hại của gia đình ông Nguyễn Hữu L với tổng số tiền là: 116.190 đồng (một trăm mười sáu nghìn, một trăm chín mươi nghìn đồng).

Ngày 08/12/2020, Hội đồng định giá có thông báo số 19, 20, 21, 22/TB– HĐĐGTS, đối với Yêu cầu định giá tài sản của gia đình Nguyễn Hữu S, ông Lê Văn T2, ông Lê Văn Q, bà Nguyễn Thị M, nêu: Hồ sơ yêu cầu định giá tài sản chưa thể hiện đầy đủ thông tin về chủng loại, nhãn hiệu của tài sản cần định giá để áp giá, vì vậy chưa có đủ cơ sở xác định giá trị thiệt hại.

Ngày 24/12/2020, Hội đồng định giá có Kết luận định giá tài sản số: 527/HĐĐGTS, kết luận: Tài sản bị thiệt hại của gia đình anh Trần Đ T3 với tổng số tiền là: 7.346.275 đồng (bảy triệu, ba trăm bốn mươi sáu nghìn, hai trăm bẩy mươi lăm đồng).

Ngày 04/01/2021, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ có công văn và bàn giao 03 (ba) mẫu giám định là các chai oxy tạm giữ tại xưởng cơ khí của S và công ty TL đến Trung tâm kiểm định an toàn kỹ thuật khu vực 1 – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội để giám định kỹ thuật an toàn.

Ngày 15/3/2021, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ nhận được hồ sơ giám định của Trung tâm kiểm định an toàn kỹ thuật khu vực 1 – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, kết luận: Căn cứ vào kết quả thử nghiệm và đối chiếu với các thông số giám định với các chỉ tiêu kỹ thuật của Tiêu chuẩn, Quy chuẩn Việt Nam: Cả 03 (ba) mẫu phù hợp với các yêu cầu của Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật Quốc Gia về chai chứa khí, đảm bảo an toàn sử dụng với môi chất và áp suất đóng trên vai chai. Tuy nhiên khi đưa chai vào sử dụng phải tuân thủ các quy định về quản lý, sử dụng, kiểm định chai theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật Quốc Gia hiện hành.

Tại cơ quan công an:

- Nguyễn Hữu S khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với tài liệu chứng cứ thu thập được.

- Anh Triệu Văn X có đơn từ chối giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể, xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Nguyễn Hữu S.

- Ông Lê Văn Q, ông Lê Văn T2; ông Nguyễn Hữu L; anh Trần Đ T3 và bà Nguyễn Thị M là những người bị thiệt hại tài sản do ảnh hưởng của vụ nổ không đề nghị cơ quan công an giải quyết, không yêu cầu gia đình ông S bồi thường thiệt hại.

- Đối với Công ty TNHH khí công nghiệp và oxy y tế TL. Quá trình điều tra xác minh thấy: Các mẫu chai khí oxy, tạm giữ của công ty TL không có hồ sơ, nguồn gốc xuất xứ; Công ty TL tự mua máy về kiểm định các chai khí oxy khi chưa có giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn; vi phạm khoản 3 Điều 23 nghị định 28/2020, ngày 01/03/2020 của Chính phủ; Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chánh Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội H. Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đ có công văn đề nghị Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội H ra Quyết định xử phạt hành chính. Ngày 18/5/2021 Chánh thanh tra sở Lao động – Thương Binh và xã hội H đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty TNHH khí công nghiệp và oxy y tế TL.

Đối với vật chứng thu giữ :

01 (một) phần đồng hồ của bình oxy; 01(một) mỏ khò kim loại; 02 (hai) ống dây dẫn màu xanh, đỏ bám dính nhau; 01 (một) mẫu đất, cát thu tại vị trí để bình oxy; 03 (ba) khóa van của bình gas bị cong vênh, nứt rách kim loại; 01(một) mảnh kim loại sơn màu xanh ghi chữ “X12632”, trên van ghi chữ “SIAN – QF – 2C” là mảnh vỡ của bình oxy và 01 (một) bình gas bằng kim loại, sơn màu xanh bị rách, thủng kim loại, biến dạng, bám muội khói đen tạm giữ tại hiện trường liên quan đến vụ án. Vì vậy đã tạm giữ, chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ để phục vụ công tác truy tố, xét xử 01 (một) bình khí oxy đã hết khí; 01 (một) ổ cứng là tài sản của Soái; Cơ quan công an đã tiến hành giám định bình khí và trích xuất video ra UBS cần trao trả cho Soái.

02 (hai) bình khí oxy là tài sản của công ty TL, cơ quan công an đã giám định xong cần trao trả cho ông Nguyễn Văn H – Giám đốc công ty TL.

Ngày 12/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Đ đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả cho Nguyễn Hữu S 01 (một) bình khí oxy, 01 (một) ổ cứng; trao trả cho ông Nguyễn Văn H – Giám đốc công ty TL 02 (hai) bình khí oxy.

Về dân sự:

Nguyễn Hữu S đã hỗ trợ cho gia đình bị hại là anh Lê Văn Đ số tiền 200.000.000 đồng. Đại diện gia đình ông Lê Văn C là bố nạn nhân Lê Văn Đ không yêu cầu S bồi thường thêm.

Nguyễn Hữu S đã hỗ trợ cho anh X số tiền 270.000.000 đồng và chi trả toàn bộ tiền điều trị vết thương của anh X trong quá trình nằm viện điều trị. Anh X không yêu cầu S bồi thường thêm.

Tại bản Cáo trạng số 212/CT-VKS-ĐA ngày 15/11/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu S về tội Vi phạm quy định về an toàn lao động theo Điểm a Khoản 1 Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo Soái khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã xin lỗi gia đình nạn nhân và mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Bị hại Triệu Văn X xin vắng mặt tại phiên tòa nhưng mẹ của bị hại là bà Nguyễn Thị H đến tham gia phiên tòa và tha thiết đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử mức án nhẹ nhất cho bị cáo và cho bị cáo cải tại ngoài xã hội. Theo bà xác định toàn bộ viện phí, chăm sóc và phần bồi thường thiệt hại bị cáo đã thanh toán cho anh X nên anh và gia đình bà không có yêu cầu gì thêm tuy nhiên gần đây nhất là đầu năm học bị cáo vẫn gửi tiền để đóng học cho các con của anh X nên gia đình bà và anh X rất cảm kích. Tại phiên tòa bà có mặt để thay con bà xin giảm nhẹ cho bị cáo còn về phần dân sự không có yêu cầu gì khác vì đã giải quyết xong.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 295, Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt:

Nguyễn Hữu S: Từ 30 tháng đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 60 tháng.

Về phần dân sự: Các bên đã tự giải quyết xong và không có yêu cầu gì khác nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/8/2020, trong quá trình tổ chức lao động tại nhà S ở thôn CĐ, xã HB, huyện ĐA, H, Nguyễn Hữu S đã vi phạm quy định về an toàn lao động: Sử dụng lao động làm nghề hàn hơi chưa qua đào tạo về hàn hơi và chưa được huấn luyện an toàn lao động theo quy định (vi phạm quy định tại điểm 4.1 QCVN 17/2013/BLĐTBXH quy chuẩn quốc gia về công tác hàn hơi; Nghị định 44/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ đã được sửa đổi, bổ dung tại Nghị định số 140/2018/NĐ- CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ) dẫn đến nổ bình ga làm chết 01 người, bị thương 01 người, thiệt hại tài sản là: 7.462.365 đồng.

Lời khai của bị cáo phù hợp với sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, kết luận giám định, biên bản điều tra tai nạn lao động, các tài liệu điều tra vụ án và kết quả tranh tụng công khai tại phiên toà. Do đó, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Hữu S phạm tội Vi phạm quy định về an toàn lao động theo Điểm a Khoản 1 Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định: Bị cáo không phải chịu các tình tiết tăng nặng theo quy định của Bộ luật Hình sự và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại theo Điểm b Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Gia đình nạn nhân và bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, bản thân bị cáo tham gia bộ đội biên giới bảo vệ Tổ quốc là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý nhà nước về an toàn lao động. Bị cáo nhận thức được hành vi sử dụng lao động trong các công việc buộc phải qua đào tạo, có chứng chỉ mà không có là vi phạm nhưng do chủ quan nên vi phạm. Nạn nhân, bị hại trong vụ án là người lao động thuộc các nghề phải có chứng chỉ nhưng không có chứng chỉ mà vẫn thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực phải được đào tạo có chứng chỉ. Bị cáo Nguyễn Hữu S đã tích cực phối hợp cấp cứu đối với bị hại, hỗ trợ bồi thường cho gia đình nạn nhân kịp thời, được gia đình nạn nhân, bị hại ghi nhận. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng. Do vậy, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với mức độ hành vi và giảm nhẹ một phần cho bị cáo, cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội dưới sự giúp đỡ, giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về phần dân sự: Gia đình nạn nhân, bị hại bị thiệt hại về sức khỏe đã nhận tiền bồi thường; những gia đình có thiệt hại về tài sản có liên quan, có cung cấp thông tin để định giá tài sản thiệt hại đã được bồi thường, không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự; có những gia đình có thiệt hại về tài sản có liên quan nhưng không cung cấp thông tin để định giá tài sản thiệt hại nên không có căn cứ để định giá tài sản, tự nguyện không yêu cầu bồi thường giải quyết về phần dân sự nên Tòa án không giải quyết về phần dân sự.

[5] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy các tài sản không còn giá trị sử dụng gồm: 01 phần đồng hồ của bình oxy; 01 mỏ khò kim loại; 02 ống dây dẫn màu xanh, đỏ bám dính nhau; 01 mẫu đất, cát thu tại vị trí để bình oxy; 03 khóa van của bình gas bị cong vênh, nứt rách kim loại; 01mảnh kim loại sơn màu xanh ghi chữ “X12632”, trên van ghi chữ “SIAN – QF – 2C” là mảnh vỡ của bình oxy và 01 bình gas bằng kim loại, sơn màu xanh bị rách, thủng kim loại, biến dạng, bám muội.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, những người đại diện theo pháp luật của bị hại, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu S phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động”.

Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 295, Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 106, Điều 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử phạt: Nguyễn Hữu S: 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Hữu S cho Ủy ban nhân dân xã HB, huyện ĐA, thành phố H giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù cho bản án đã được hưởng án treo.

Tịch thu tiêu hủy các tài sản không còn giá trị sử dụng gồm: 01 phần đồng hồ của bình oxy; 01 mỏ khò kim loại; 02 ống dây dẫn màu xanh, đỏ bám dính nhau;

01 mẫu đất, cát thu tại vị trí để bình oxy; 03 khóa van của bình gas bị cong vênh, nứt rách kim loại; 01mảnh kim loại sơn màu xanh ghi chữ “X12632”, trên van ghi chữ “SIAN – QF – 2C” là mảnh vỡ của bình oxy và 01 bình gas bằng kim loại, sơn màu xanh bị rách, thủng kim loại, biến dạng, bám muội.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người đại diện theo pháp luật của bị hại, các bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 224/2021/HS-ST về tội vi phạm quy định an toàn lao động

Số hiệu:224/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;