TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 54/2023/HS-ST NGÀY 07/11/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI
Ngày 07 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T (M), sinh ngày 01/01/1970 tại L, A; nơi cư trú: số C, tổ A, ấp N, xã N, huyện C, tỉnh A; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Nguyễn Thị T1 (đều đã chết); vợ là Quách Mỹ H (đã ly hôn) và có 01 con, sinh năm 1992; anh chị em ruột có 09 người, bị cáo là người thứ bảy.
Nhân thân: Ngày 25/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh A xử phạt 16 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; đến ngày 31/8/2015, chấp hành xong hình phạt tù, đã đóng án phí.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giữ từ ngày 08/7/2023, đến ngày 17/7/2023 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Chau R, sinh năm 1988, nơi cư trú: tổ A, khóm H, phường N, thị xã T, tỉnh A; có mặt.
Người làm chứng: Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1987; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 08/7/2023, Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế T4 phối hợp cùng với Chi cục Hải quan Cửa khẩu Quốc tế T4 kiểm tra khu vực Barie số 2 (cổng nhập Campuchia về Việt Nam) thuộc khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh A thấy Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô biển số 67N1- xxxxx chạy từ hướng Campuchia về Cửa khẩu Quốc tế T4 có biểu hiện nghi vấn, lực lượng chức năng yêu cầu T dừng xe để kiểm tra nhưng T không chấp hành mà vẫn tiếp tục điều khiển xe chạy một đoạn khoảng 40m thì dừng lại để lực lượng chức năng kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi áo khoác trước ngực của T có 70 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 100 USD, trong túi quần phía sau của T có 05 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 2 USD và 01 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 1 USD nên lực lượng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T cùng tang vật.
Quá trình điều tra xác định: số tiền 7.000 đô la Mỹ Trọng được một người đàn ông tên R1 (người Campuchia, không rõ họ, địa chỉ) cho tiền hoa hồng do T môi giới cho R1 bán con kỳ lân bằng đồng cho bà T2 (không rõ họ, địa chỉ cụ thể ở tỉnh Bạc Liêu) và số tiền 11 đô la Mỹ, T được bạn bè tặng làm kỷ niệm, xe mô tô 67N1-xxxxx là của Riêng ở huyện T, tỉnh A, T mượn xe của Riêng tại Campuchia, mục đích về Việt Nam thăm gia đình và đổi tiền nhưng khi qua Cửa khẩu Quốc tế T4 thì bị lực lượng biên phòng phát hiện T cất giấu tiền đô la Mỹ trong người nên lực lượng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T.
Tang vật thu giữ gồm có: 01 xe mô tô biển số 67N1-xxxxx, màu sơn đỏ - đen, nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter; giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Chau R; 03 điện thoại di động, gồm 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel IZI 10, 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A93, 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A50.
Tại Bản kết luận giám định số 95/KL-KTHS (TL-GT) ngày 12/7/2023 của Phòng K - Công an tỉnh A, kết luận: “01 phong bì màu trắng viền màu đỏ - xanh được niêm phong, bên trong có 70 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 100 USD được quấn dây thun màu vàng, 05 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 2 USD và 1 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 1 USD; 76 tờ tiền đô la Mỹ gửi giám định là tiền thật”.
Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 1542 ngày 17/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T, kết luận: “76 tờ tiền đô la Mỹ (trong đó 70 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 100 USD, 05 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 2 USD và 01 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 1 USD) có tổng giá trị là 164.737.467 đồng”.
Tại Cáo trạng số 57/CT-VKSTB.HS ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” theo quy định tại khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015).
Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Chau R cung cấp lời khai phù hợp với quá trình điều tra, có yêu cầu được nhận lại xe mô tô biển số 67N 1-xxxxx cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên C.
Người làm chứng Nguyễn Ngọc L vắng mặt tại phiên toà nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu (từ bút lục 132 đến 136).
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 189, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức phạt tù bằng với thời hạn tạm giam từ ngày 08/7/2023 đến ngày Tòa án xét xử 07/11/2023 và tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 7.011 đô la Mỹ (70 tờ mệnh giá 100 USD, 05 tờ mệnh giá 2 USD và 01 tờ mệnh giá 1 USD); giao trả cho bị cáo 03 điện thoại di động bị thu giữ do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; giao trả cho Chau R 01 xe mô tô loại Exciter, biển số 67N1-xxxxx cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên C. Đối với người đàn ông tên R1 người Campuchia và bà T2 ở Bạc Liêu do không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý theo luật định.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án C thống nhất quan điểm luận tội, không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
- Tại phiên toà, người làm chứng Nguyễn Ngọc L vắng mặt, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của ông L không gây trở ngại đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận:
Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 08/7/2023, Nguyễn Văn T nhập cảnh từ Campuchia vào Việt Nam tại khu vực B số 2 (cổng nhập Campuchia về Việt Nam) thuộc khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh A mang theo số tiền 7.011 đô la Mỹ để trong túi áo khoác trước ngực và trong túi quần phía sau nhưng không thực hiện khai báo hải quan, bị Đồn biên phòng Cửa khẩu Quốc tế T4 phối hợp cùng Chi cục Hải quan Cửa khẩu Quốc tế T4 phát hiện và bắt quả tang.
Tại Kết luận giám định số 95/KL-KTHS(TL-GT) ngày 12/7/2023 của Phòng K - Công an tỉnh A và Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 1542/KL-HĐĐG.TTHS ngày 17/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T xác định: số tiền 7.011 USD (76 tờ tiền đô la Mỹ gửi giám định, tương đương 164.737.467 đồng) là tiền thật.
Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 189 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt là phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm (tội phạm ít nghiêm trọng).
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý, trực tiếp xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước, ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách của Ngân hàng N trong việc quản lý dự trữ ngoại hối theo quy định của pháp luật về ngoại hối, nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và bảo đảm dự trữ ngoại hối của Nhà nước. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bị cáo Nguyễn Văn T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi vận chuyển 7.011 đô la Mỹ, trị giá 164.737.467 đồng từ Campuchia về Việt Nam nhưng không khai báo cơ quan chức năng tại cửa khẩu, không khai báo hải quan về tiền tệ mình mang theo khi đi qua T4 là vi phạm pháp luật của hai nước Vương quốc Campuchia và Việt Nam nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện với mục đích tiêu xài cá nhân. Trước khi phạm tội, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; về nhân thân, ngày 25/3/2004, bị Tòa án nhân dân tỉnh A xử phạt 16 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 31/8/2015 chấp hành xong.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, thị xã T là đô thị biên giới của tỉnh A, có đường biên giới chung giữa Việt Nam với Vương quốc Campuchia, có nhiều thuận lợi cho việc phát triển kinh tế cửa khẩu, dịch vụ thương mại du lịch thông qua Cửa khẩu Quốc tế T4. Hiện nay, trên địa bàn thị xã T các tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xuất nhập cảnh đang có chiều hướng gia tăng, khó kiểm soát, gây mất trật tự trị an, an ninh chính trị tại địa phương. Do đó, việc buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly khỏi xã hội như quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là cần thiết. Tuy nhiên, mức hình phạt tù mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng với bị cáo bằng với thời hạn đã tạm giam (từ ngày 08/7/2023 đến ngày xét xử 07/11/2023) là chưa tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra và chưa đảm bảo mục đích răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội; vì vậy, mức hình phạt tù đề nghị áp dụng đối với bị cáo của đại diện Viện kiểm sát không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 189 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, bị cáo làm thuê, thu nhập không ổn định, điều kiện hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
- Đối với số tiền 7.011 đô la Mỹ thu giữ do bị cáo vận chuyển trái phép qua biên giới nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Đối với 0 3 điện thoại di động thu giữ là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện nên giao trả lại cho bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Đối với 01 xe mô tô loại Exciter, biển số 67N 1-xxxxx, theo Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 10/7/2023 của Phòng C - Công an tỉnh A, xe mô tô biển số 67N1-xxxxx do ông Chau R đứng tên chủ sở hữu; ông R có lời khai xác định cho bị cáo mượn xe để sử dụng, không biết bị cáo sử dụng xe đề thực hiện hành vi phạm tội và có yêu cầu nhận lại xe mô tô nên giao trả xe mô tô biển số 67N1-xxxxx cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Chau R cho ông Chau R theo điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[6] Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông tên RI người Campuchia và bà T2 ở Bạc Liêu, do không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên chưa làm việc được, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.
[7] Về án phí và quyền kháng cáo:
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 189; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T (M) phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”;
Xử phạt: Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 08/7/2023 (ngày tám, tháng bảy, năm hai nghìn không trăm hai mươi ba).
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 76 tờ tiền đô la Mỹ (trong đó, 70 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 100 USD, 05 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 2 USD và 01 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 1 USD) được niêm phong trong 01 (một) phong bì có đóng dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T cùng các chừ ký, họ tên Nguyễn Thị Mỹ H1, Trần Văn T3, Nguyễn Văn Đ, Lữ Văn M1, hiện tạm gửi tại tài khoản số 9911.0.9041391.xxxx của Công an thị xã T mở tại Kho bạc nhà nước T5, tỉnh A (kèm theo Bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 17/7/2023 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an thị xã T; Bản kết luận giám định; Biên bản giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 12/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh A và thống kê đồ vật, tài liệu bị tạm giữ số 01/TH-ĐTB ngày 08/7/2023).
- Giao trả cho bị cáo Nguyễn Văn T: 03 điện thoại di động, gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel IZI 10, số IMEI1: 352766244391033, số IMEI2: 352766244391041, trên máy có gắn thẻ sim số thuê bao 0718912853 (sim số Campuchia, số I 898550821000303xxxx); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A93, màu xanh, số IMEI1: 868057057990732, số IMEI2: 868057057990724, trên máy có gắn thẻ sim số thuê bao +855712610137 (sim số Campuchia, số I 898550821000609xxxx) (đều đã qua sử dụng) và 01 (một) điện thoại di động S A50, màu đen, không mở nguồn được (Nguyễn Văn T trình bày điện thoại đã bị hư hỏng).
- Giao trả cho ông Chau R: 01 (một) xe mô tô biển số 67N1-xxxxx; màu sơn: đỏ - đen; nhăn hiệu: Yamaha, loại: Exciter; số máy: G3D4E1014223; số khung: 1010KY243191, đã qua sử dụng cùng 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 050343; tên chủ xe C, biển số 67N 1-xxxxx.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03 tháng 11 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T với Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã T).
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miên, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Văn T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án C có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 54/2023/HS-ST về tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới
Số hiệu: | 54/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về