TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 64/2020/HS-PT NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07/5/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2020/TLPT-HS ngày 30/3/2020 đối với bị cáo Bùi Văn P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2020/HS-ST ngày 26/2/2020 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo: Bùi Văn P - Sinh ngày 17/4/1998 tại Quảng Trị; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã G, huyện G, tỉnh Q; Chỗ ở trọ: Phòng trọ số 6, dãy trọ số 17, đường T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn N (s) và bà Lê Thị C (s); Chưa có vợ con. Gia đình có 3 anh chị em, bị cáo là con thứ hai.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 16/12/2019 bị công an quận L ra Quyết định xử phạt hành chính do đã thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt ngày 18/10/2019. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào trưa ngày 18/10/2019, Bùi Văn P nhận được điện thoại của một thanh niên tên T (không rõ lai lịch) quen biết ngoài xã hội, nhờ ra trước chợ Đ, tỉnh Q để lấy ma tuý đem về giao cho khách tại TP. Đà Nẵng, khi về đến sẽ có người trực tiếp liên lạc lấy số ma túy này và P sẽ được trả công 2.000.000 đồng. Sau đó, P đón xe ra tỉnh Q, khi đến trước chợ Đ thì có một thanh niên khác (bạn của Tý, không rõ lai lịch) đến và giao cho P 01 gói nylon bên trong có 196 viên nén màu đỏ và 20 ống nhựa màu trắng để P giao cho khách. Sau khi nhận ma túy, P đón xe khách và đem số ma túy trên về lại TP. Đà Nẵng. Khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày, P về đến phòng trọ tại đường T, phường H, quận L, TP Đà Nẵng. Lúc về phòng trọ, có Lê Văn T - là bạn cùng phòng trọ đang ngủ. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi đang đợi người gọi điện thoại liên lạc với P để nhận ma túy thì lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ, P vội cất giấu số ma túy này vào phòng vệ sinh nhưng bị phát hiện và bắt quả tang.
* Vật chứng tạm giữ:
- 01 bao nylon màu xanh bên trong có 196 viên nén màu đỏ nghi là chất ma túy đã được niêm phong (ký hiệu A).
- 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen có gắn thẻ sim có số thuê bao 0845.345.844.
- 20 ống út bằng nhựa màu trắng.
- 01 CMND mang tên Bùi Văn P.
Theo kết luận giám định số: 298/GĐ-MT ngày 23/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Mẫu viên nén trong bì niêm phong ký hiệu A gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng viên nén mẫu A: 19,629 gam.
Quá trình điều tra, P khai nhận mục đích vận chuyển số ma túy trên để được trả tiền công vận chuyển, có tiền tiêu xài cá nhân. Ngoài ra, cũng với P thức như trên, P còn vận chuyện trái phép chất ma túy từ Q vào Đà Nẵng hai lần khác, mỗi lần 200 viên hồng phiến vào các ngày 04/10/2019 và ngày 10/10/2019. Sau khi vận chuyển cho T, P đem về giao cho đối tượng khác (không rõ lai lịch) tại Đà Nẵng và nhận tiền công vận chuyển là 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).
Tại Bản án sơ thẩm số 16/2020/HS-ST ngày 26/2/2020 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng đã quyết định: Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bùi Văn P 10 (Mười) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18.10.2019.
Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 06/3/2020, bị cáo Bùi Văn P có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Về nội dung: Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy rằng Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2020/HS-ST ngày 26/2/2020 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 2 Điều 250 BLHS và xử phạt bị cáo với mức án 10 năm tù là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ Luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo và đề nghị Hội đồng giảm nhẹ một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Bùi Văn P đã khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 18/10/2019, tại phòng trọ số 6, thuộc dãy phòng trọ số 17, số 19 đường Thanh Vinh 5, phường Hòa Khánh Bắc, quận L, TP Đà Nẵng, lực lượng công an tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang và thu giữ của Bùi Văn P 19,629 gam ma túy loại Methamphetamine. Quá trình điều tra Bùi Văn P khai nhận trong ngày 18/10/2019 đã lấy số ma túy này từ tỉnh Q rồi đi bằng xe khách vào thành phố Đà Nẵng nhằm giao cho người khác để được trả tiền công vận chuyển. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, bản án hình sự sơ thẩm số 16/2020/HSST ngày 26/2/2020 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đà Nẵng xét xử bị cáo Bùi Văn P về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm h khoản 2 Điều 250 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy: Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về ma túy, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng là cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, đồng thời áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 10 năm tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn P, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn P 10 (mười) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 18/10/2019 .
3. Về án phí: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 64/2020/HS-PT
Số hiệu: | 64/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về