Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 34/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIẾN GIANG

BẢN ÁN 34/2024/HS-ST NGÀY 30/08/2024 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2024/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2024/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh ngày 06/9/1967; Tại huyện C, tỉnh Kiên Giang;

Nơi cư trú: Ấp V, xã V, huyện C, tỉnh Kiên Giang;

Nghề nghiệp: Chạy xe ôm; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam;

Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Mai Thị N1 (đã chết);

Có vợ tên Lý Thị T; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 1999;

Tiền sự, tiền án: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà Tạm giữ - Công an huyện A, tỉnh Kiên Giang từ ngày 14/6/2024 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Hồ Việt N2, sinh năm 1987. Vắng mặt Trú tại: Khu phố C, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ ngày 13/6/2024 Nguyễn Văn L được một người phụ nữ tên Tiết Bé T1 (trú ấp S, xã V, huyện C, tỉnh Kiên Giang) thuê vận chuyển 01 (Một) hộp giấy màu hồng bên trong có 02 bịt nylon chứa chất ma túy với số tiền vận chuyển thuê là 150.000 đồng để đến địa bàn huyện A, tỉnh Kiên Giang giao cho một thanh niên không biết tên do T1 hẹn trước thì L đồng ý. Lúc này, L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển kiểm soát 72L2 - xxxx đến điểm hẹn để nhận 01 (Một) hộp giấy có chứa chất ma túy và bắt đầu vận chuyển đến địa bàn huyện A, tỉnh Kiên Giang để giao như đã hẹn trước. Sau khi lấy được gói hàng, Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô trên đến khu vực cầu T thuộc ấp X, xã H, huyện A, tỉnh Kiên Giang và ngồi chờ người đến nhận. Lúc này, lực lượng Công an huyện A phát hiện, tiến hành kiểm tra và bắt quả tang.

* Vật chứng của vụ án gồm: 01 (Một) bịch nylon được hàn kín có kích thước lần lượt 05cm x 04cm; 01 bịt nylon được hàn kín có kích thước lần lượt 4.5cm x 3,5cm bên trong có chứa các hạt tinh thể không đồng chất nghi là ma túy; 01 (Một) hộp giấy màu hồng có in dòng chữ POCKET PERFUME; 250SPRAY có kích thước 9cm x 5,5cm x 1,5cm; 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter, màu đen vàng, số máy không rõ, số khung: RLCJ5B920GY007190, biển kiểm soát 72L2 - xxxx đã qua sử dụng và 01 (Một) điện thoại di động NOKIA màu đen model TA1203, IMEI:350618543577220 có gắn 01 sim V có dãy số 8984048000316189184 đã qua sử dụng, không kiểm tra được tình trạng hoạt động.

* Tại Kết luận giám định số 592/KL-KTHS ngày 20/6/2024 của Phòng K Công an tỉnh K kết luận: Các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất chứa bên trong 02 (Hai) bịch nylon hàn kín được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 4,9560 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 247, Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

* Tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKSHAB ngày 07/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn L từ 02 (Hai) năm đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đề nghị xử lý theo quyết định chuyển vật chứng của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào khoảng 23 giờ ngày 13/6/2024 Nguyễn Văn L điều khiển xe môtô biển kiểm soát 72L2-xxxx đi từ ấp S, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang để vận chuyển thuê 01 (Một) hộp giấy màu hồng bên trong có 02 (Hai) bịt nylon chứa chất ma túy với số tiền vận chuyển thuê là 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) để giao cho một người đàn ông (không rõ họ tên, nhân thân). Khi đi đến ấp X, xã H, huyện A, tỉnh Kiên Giang thì bị lực lượng Công an huyện A khám xét bắt quả tang thu giữ cùng tang vật. Theo Kết luận giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 4,9560 gam. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có năng lực hành vi, ý thức được việc vận chuyển trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy. Nhưng vì muốn kiếm tiền, bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm mà không suy nghĩ đến hậu quả, vận chuyển trái phép chất ma túy cho các đối tượng khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Bị cáo biết rõ việc vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi phạm tội, tiếp tay cho các đối tượng khác để thực hiện hành vi mua bán, tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật khác, làm mất an ninh trật tự xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Do đó, cần xét xử bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời, qua xét xử nhằm tuyên truyền tác hại ma túy, ngăn ngừa chung loại tội phạm này.

Đối với Tiết Bé T1 qua làm việc T1 không thừa nhận thuê Nguyễn Văn L vận chuyển ma túy cho người đàn ông lạ mặt (chưa xác định được nhân thân lai lịch) nên không có cơ sở xử lý.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra biết ăn năn hối cải. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.

[4] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter, màu đen vàng, số máy không rõ, số khung: RLCJ5B920GY007190, biển kiểm soát 72L2 - xxxx đã qua sử dụng và 01 (Một) điện thoại di động NOKIA màu đen model TA-1203, IMEI:350618543577220 có gắn 01 sim V có dãy số 8984048000316189184 đã qua sử dụng, không kiểm tra được tình trạng hoạt động;

Tịch thu tiêu hủy:

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 4,8654 gam được đựng trong hai bịch nylon và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (Một) phong bì có ký hiệu vụ số 631/2024.

[5] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 250 Bộ luật hình sự.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L, 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 14/6/2024.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter, màu đen vàng, số máy không rõ, số khung: RLCJ5B920GY007190, biển kiểm soát 72L2 - xxxx đã qua sử dụng và 01 (Một) điện thoại di động NOKIA màu đen model TA-1203, IMEI:350618543577220 có gắn 01 sim V có dãy số 8984048000316189184 đã qua sử dụng, không kiểm tra được tình trạng hoạt động;

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 4,8654 gam được đựng trong hai bịch nylon và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (Một) phong bì có ký hiệu vụ số 631/2024.

(Theo quyết định chuyển vật chứng số 37/QĐ-VKSHAB ngày 07/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn L1 phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
  • Tên bản án:
     Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 34/2024/HS-ST
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    34/2024/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    30/08/2024
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 34/2024/HS-ST

Số hiệu:34/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành:
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;