Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 09/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 09/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 211/2020/HSST ngày 03 tháng 12 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Th, sinh ngày: 06 tháng 8 năm 1994, tại huyện Th, tỉnh Nghệ An; nơi ĐKHKTT: xóm B, xã Th, huyện Th, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình C và bà Trần Thị T; có chồng Nguyễn Hữu H và có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị bắt, tạm giam từ ngày 30/7/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: bà Nguyễn Thị Th, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư C, Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 30/7/2020, tại khu vực trước cổng khu C, Khu công nghiệp N, thuộc Xóm 11, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an huyện N phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Thị Th, sinh năm 1994, trú tại xóm B, xã Th, huyện Th, tỉnh Nghệ An đang mang theo trên người 1 ba lô màu đen, bên trong ba lô chứa 2 gói ni lông màu vàng, bên trong mỗi gói đều chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy).

Nguyễn Thị Th khai do Th có mối quan hệ tình cảm với Đậu Anh T, sinh năm 1967, trú tại xóm B, xã Th, huyện Th nên khoảng 17 giờ ngày 30/7/2020, T hẹn gặp Th tại một nhà nghỉ ở thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Tại đây, T đưa cho Th một ba lô màu đen bên trong có hai gói ni lông màu vàng chứa ma túy đá. T nói Th đưa số ma túy này xuống khu công nghiệp Nam Cấm, sẽ có người đến nhận. Th đưa ra điều kiện, T phải xóa cho Th khoản nợ 50.000.000 đồng mà T cho Th vay trước đó. T đồng ý, giao ba lô chứa hai gói ma túy cho Th, Th mang ba lô chứa ma túy xuống cổng nhà nghỉ đứng đón xe taxi. Đứng chờ một lúc không thấy xe taxi đến nên Th gọi cho T đến đón. T chở Th đi đến trước cổng công ty may N trên đường Quốc Lộ 46 thì dừng lại. Th mang theo ba lô chứa ma túy xuống xe của T và bắt xe taxi đi xuống khu công nghiệp N. Khi Th đang đứng chờ người của T đến nhận ma túy thì bị bắt giữ.

Ngày 31/7/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh Nghệ An lập Hội đồng, xác định khối lượng vật chứng và lấy mẫu vật gửi giám định. Bản kết luận giám định số 1109/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 04/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Hai mẫu chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1, M2) thu giữ của Nguyễn Thị Th gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị Th có tổng khối lượng là 1998,42 gam”.

Vật chứng còn lại của vụ án và những đồ vật liên quan gồm: 1821,35 gam Methamphetamine (đã trừ mẫu vật sử dụng để giám định), một ba lô màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Star3 màu đen, số Imei 1: 359869101908759, số Imei 2: 359869101908767 thu giữ của Nguyễn Thị Th được niêm phong, bảo quản theo đúng quy định.

Tại Bản cáo trạng số 01/CT-VKS-P1 ngày 02/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã truy tố Nguyễn Thị Th về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng Điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt Nguyễn Thị Th tù Chung thân; thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 30/7/2020.

- Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự: tịch thu tiêu hủy 1821,35 gam Methamphetamine, một ba lô màu đen chứa gói ma túy; tịch thu sung quỹ Nhà nước một điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Star3 màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị Th là công cụ, phương tiện phạm tội;

- Về hình phạt bổ sung: đề nghị miễn cho bị cáo do hoàn cảnh khó khăn.

- Về án phí: bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết. Luật sư bào chữa cho bị cáo không tranh luận về tội danh, khung hình phạt; đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như: tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo ở mức thấp hơn đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị Th khai nhận như sau: Khoảng 17 giờ ngày 30/7/2020, Nguyễn Thị Th nhận lời vận chuyển một ba lô trong chứa 02 gói ma túy có trọng lượng 1998,42 gam ma túy (Methamphetamine) cho người đàn ông tên Đậu Anh T từ thị trấn N, huyện N, tỉnh Nghệ An đến Khu công nghiệp N, thuộc xóm 11, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An để trừ đi số nợ 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) mà trước đó Nguyễn Thị Th nợ Đậu Anh T.

Khoảng 19 giờ cùng ngày, khi Nguyễn Thị Th đưa số ma túy nói trên đến trước cổng khu C, Khu công nghiệp N, chưa kịp giao cho người khác thì bị tổ công tác Công an huyện N phát hiện, bắt quả tang.

Như vậy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án.

Vì vậy, có đầy đủ cơ sở để khẳng định: hành vi vận chuyển trái phép ma túy (Methamphetamine) có trọng lượng là 1998,42 gam để thu lợi của bị cáo Th đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết.

[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện như ma túy đá. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước đang kiên quyết đấu tranh nhằm đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi cộng đồng xã hội. Bản thân bị cáo nhận thức được ma túy là chất độc hại, Nhà nước cấm vận chuyển, tàng trữ, sử dụng, vận chuyển nhưng bị cáo vẫn vận chuyển số lượng lớn để thu lợi, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm minh và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung.

[2.3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy rằng, bị cáo không có tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ: tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Nguyễn Thị Th là phụ nữ nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, vì vậy Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An là phù hợp.

[2.4] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 250 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng nhưng xét thấy bị cáo chưa thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội, bản thân không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập không ổn định, không có tài sản gì nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung.

Trong vụ án này, theo lời khai của Nguyễn Thị Th, người đàn ông tên T đã thuê Th vận chuyển ma túy, hiện đang bỏ trốn khỏi địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[2.5] Về xử lý vật chứng: đối với 1821,35 gam Methamphetamine (đã trừ mẫu vật sử dụng để giám định) còn lại là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với một ba lô màu đen chứa gói ma túy không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Star3 màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị Th là công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước;

[2.6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, túy”.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị Th phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma Áp dụng: điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị Th tù chung thân.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 30/7/2020.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 1821,35 gam Methamphetamine, một ba lô màu đen chứa gói ma túy; tịch thu sung quỹ Nhà nước một điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Star3 màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị Th là công cụ phương tiện phạm tội;

Đặc điểm vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An ngày 03/12/2020.

3. Về án phí: căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án lên Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 09/2021/HS-ST

Số hiệu:09/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;