TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 88/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện N, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Trần Đức K - Sinh ngày 20 tháng 02 năm 1989 tại huyện N, tỉnh N; Nơi cư trú: xóm D xã N, huyện N, tỉnh N; Tên gọi khác: không; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đức Q và bà Nguyễn Thị K1; Vợ Nguyễn Thị N (sinh năm 1997) và có 01 con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” và “Tạm hoãn xuất cảnh”. Có mặt.
2. Họ và tên: Trần Xuân L - Sinh ngày 28 tháng 7 năm 1997 tại huyện N, tỉnh N; Nơi cư trú: xóm D xã N, huyện N, tỉnh N; Tên gọi khác: không; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đức H và bà Nguyễn Thị D; Vợ Đặng Thị S (sinh năm 1998) và có 01 con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 05/9/2023 đến ngày 11/9/2023 thì thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” và “Tạm hoãn xuất cảnh”. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 05/9/2023, nhận được tin báo quần chúng về hành vi phạm pháp, tại khu vực xóm D xã N, huyện N, tỉnh N, Tổ công tác Công an huyện N phối hợp Công an xã N, Công an xã N phát hiện bắt quả tang trên vị trí để chân xe máy điện biển kiểm soát MĐ2-xxxxx do Trần Xuân L điều khiển có 01 thùng cactong màu vàng, bên trong có chứa 10 khối hình hộp chữ nhật, có hình dạng, kích thước giống nhau, bên ngoài đều có dán giấy nhiều màu sắc, trên có hoa văn và ký tự chữ nước ngoài, kích thước mỗi khối là 13cmx13cmx10cm (nghi là pháo nổ). Tổ công tác khống chế đối tượng, lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật, tịch thu thêm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone8 Plus màu hồng đưa về trụ sở tạm giữ; tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, kết quả: tổng khối lượng tang vật thu giữ là 11,8kg.
Ngày 05/9/2023, Cơ quan điều tra trích mẫu ngẫu nhiên gửi giám định 01 khối có khối lượng là 1,18kg theo Quyết định trưng cầu giám định số 190/QĐ-CSĐT ngày 06/9/2023. Tại kết luận giám định số 218/KL-KTHS(Đ2-CN) ngày 09/9/2023, Phòng K4 Công an tỉnh N kết luận: Mẫu vật gửi tới giám định là pháo, thuộc loại pháo nổ. Mẫu cần giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Quá trình điều tra, Trần Xuân L khai nhận: do L và Trần Đức K là anh em họ nên vào ngày 05/9/2023, K vắng nhà nên đã nhờ L mang 10 khối pháo đến điểm hẹn để giao cho người đàn ông tên là K2 đồng thời lấy hộ số tiền K2 còn nợ K là 9.150.000 đồng. L và K liên hệ với nhau qua ứng dụng Messenger tài khoản “L Bin” đăng nhập trên chiếc điện thoại Iphone8 Plus màu hồng (L mượn của bố là ông Trần Đức H sử dụng trong thời gian mất điện thoại) và “K Trần” (tài khoản của K). L lấy chiếc xe máy điện biển kiểm soát MĐ2-xxxxx của ông H chở pháo đi giao hộ nhưng không được nhận bất kỳ lợi ích vật chất gì từ K.
Nghe tin L bị bắt giữ, ngày 10/9/2023, K đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận: vào khoảng tháng 08/2023, K có đặt mua trên mạng Internet 10 khối pháo để sử dụng vào dịp lễ, tết của người Công giáo và mang về giấu trong nhà. Đến sáng ngày 04/9/2023, có người thanh niên tên K2 (trú ở xã N) làm công trình cùng K trước đây có gọi điện hỏi nhờ tìm mua pháo. Do việc cất giữ pháo trong nhà không tiện nên K đồng ý cho K2 10 khối pháo đã mua nhưng vì đang ở Hà Nội nên vào lúc 19 giờ ngày 05/9/2023, K đã sử dụng tài khoản của mình là “K Trần” nhắn tin qua ứng dụng Messenger tài khoản “L Bin” của L để nhờ L mang pháo giao cho K2 đồng thời lấy hộ K số tiền K2 đang nợ là 9.150.000 đồng. K khẳng định là không bán pháo cho K2. Còn chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone5 mà K dùng liên lạc với L đã bị mất trên đường từ Hà Nội về nhà.
Kiểm tra dữ liệu tin nhắn giữa tài khoản “L Bin” và tài khoản “K T”, Cơ quan điều tra phát hiện thấy có tin nhắn có nội dung không rõ ràng, tiến hành đối chất nhưng không chứng minh được sự việc mua bán pháo. Xác minh tại xã N không có người thanh niên tên K2 như khai nhận của L và K.
Ngày 14/9/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại di động Iphone8 Plus màu hồng và chiếc xe máy điện biển kiểm soát MĐ2-xxxxx cho ông Trần Đức H.
Tại bản cáo trạng số 89/CT-VKS-NL ngày 06/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Trần Đức K về tội “Tàng trữ hàng cấm” và truy tố bị cáo Trần Xuân L về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử giữ nguyên việc truy tố bị cáo K phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”; bị cáo L phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo K mức án từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng được cho hưởng án treo, thử thách 16 tháng đến 20 tháng; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo L mức án từ 07 tháng đến 09 tháng tù nhưng được cho hưởng án treo, thử thách 14 tháng đến 18 tháng; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tiêu hủy số pháo còn lại đựng trong thùng các tông màu vàng đang bảo quản tại Kho vật chứng công an huyện N. Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
- Các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố, tỏ ra ăn năn hối cải, đã nhận thức được tính nghiêm trọng của hành vi phạm tội, cam đoan sẽ không bao giờ tái phạm. Bị cáo K và L thu nhập không ổn định, không có tài sản gì có giá trị lớn. Bị cáo K xin được xử phạt tiền và giảm nhẹ hình phạt hơn so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:
- Trong quá trình điều tra: Điều tra viên được phân công điều tra đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng về việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lập hồ sơ vụ án; hỏi cung bị can; khám xét chỗ ở và xử lý vật chứng; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn.
- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Kiểm sát viên đã thực hiện nghiêm túc hoạt động kiểm sát điều tra; tham gia phiên tòa đúng thời gian, địa điểm; công bố bản cáo trạng; tham gia xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đồng thời thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cũng như người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử.
Do các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên hợp pháp và được sử dụng làm chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét.
[2] Về nội dung:
Tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người tham gia tố tụng khác, vật chứng được thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: trong khoảng thời gian từ tháng 8/2023 đến ngày 05/9/2023, tại nhà riêng thuộc xóm D xã N, huyện N, tỉnh N, Trần Văn K đã thực hiện hành vi tàng trữ 10 khối pháo nổ có khối lượng 11,8kg nhưng không đủ chứng cứ chứng minh được mục đích buôn bán. Đến khoảng 21 giờ ngày 05/9/2023, khi Trần Xuân L mang 10 khối pháo K đã tàng trữ để giao cho người đàn ông tên K2 tại khu vực xóm D xã N, huyện N, tỉnh N thì bị Cơ quan điều tra phát hiện, bắt và thu giữ.
Như vậy, hành vi của bị cáo K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm” và hành vi của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận xác định tội danh, khung hình phạt như truy tố của Viện kiềm sát nhân dân huyện N.
Xét tính chất vụ án: Hành vi của các bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm không lớn cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế (tàng trữ mặt hàng pháp luật cấm), làm ảnh hưởng đến sự bình thường của hoạt động quản lý nhà nước về pháo và sử dụng pháo. Hành vi tàng trữ pháo nổ của K chính là nguyên nhân, khởi nguồn cho hành vi vận chuyển pháo nổ của L nên hành vi của K có tính chất nguy hiểm và phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn so với L. Đảng, Nhà nước đã có nhiều hình thức tuyên truyền về tác hại của pháo nổ cũng như các chế tài nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm liên quan đến pháo nổ, đặc biệt vào thời điểm trước Tết cổ truyền để nhân dân nâng cao ý thức pháp luật. Tuy nhiên, các bị cáo vẫn coi thường và cố ý vi phạm nên cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội.
Nhưng xét: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự), bị cáo K đầu thú (là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự). Các bị cáo nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng nên Hội đồng xét xử chấp nhận áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương là đủ sức răn đe, phòng ngừa tái phạm. Bị cáo K không có thu nhập ổn định và tài sản gì có giá trị lớn; hành vi của bị cáo lại là nguyên nhân của hành vi phạm tội của L nên Hội đồng xét xử không chấp nhận xử phạt tiền như đề nghị của bị cáo.
Để đảm bảo thi hành án, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng:
1,18kg pháo thu giữ đã được sử dụng hết vào mục đích giám định kỹ thuật hình sự nên không xem xét. Số pháo còn lại (10.62kg) là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và thùng cactong đựng pháo là vật mang dấu vết tội phạm, không có giá trị sử dụng; cần tiêu hủy.
Chiếc điện thoại di động nhăn hiệu Iphone8 Plus màu hồng (phương tiện liên lạc) và chiếc xe máy điện biển kiểm soát MĐ2-xxxxx là tài sản của ông Trần Đức H nhưng ông H không có lỗi trong việc để các tài sản này sử dụng vào mục đích phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông H là đúng pháp luật.
Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone5 của K sử dụng để liên lạc với L và K2 đã bị mất, không thu giữ được nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Các vấn đề khác: Người đàn ông tên K2 không xác định được danh tính, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không xử lỷ là đúng pháp luật.
Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 191 của Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố bị cáo Trần Đức K phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”; Trần Xuân L phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
- Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Trần Đức K 08 (T1) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/11/2023).
- Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Trần Xuân L 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/11/2023).
Các Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh N giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo. Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật Thi hành án hình sự.
- Biện pháp tư pháp: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Tiêu hủy 10,62kg pháo còn lại và 01 thùng cát tông màu vàng đựng trong 01 bì xác rắn hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng Công an huyện N theo Phiếu nhập kho vật chứng ngày 11/9/2023.
- Về án phí: áp dụng Khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trần Đức K và Trần Xuân L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày lên Toà án nhân dân tỉnh N kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 88/2023/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 88/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về