TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 59/2022/HS-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 52/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52 /2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn C, sinh ngày: 02/10/1985, tại tỉnh B. Nghề nghiệp: tài xế. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã Chu Điện, huyện N, tỉnh B; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ch và bà Nguyễn Thị T; Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1983. Con: Có 02 người, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2016. tiền sự: không có; tiền án: không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm; 1975. Địa chỉ: Thôn Hà Mỹ, xã Chu Điện, huyện N, tỉnh B. vắng mặt
2. Ngân hàng T (TBank) Trụ sở chính: Tòa nhà TBank, số 57, phố Lý thường Kiệt, Phường Trần Hưng Đạo, Quận H, Thành phố H.
trị.
Người đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Minh P - Chủ tịch Hội đồng quản
Người đại diện hợp pháp: Ông Đỗ Hoài D, sinh năm: 1981. Địa chỉ: Ấp Vườn Bưởi, xã Lộc Thiện, huyện B, tỉnh B. có mặt
3. Anh Lê Đức D1, sinh năm: 1993, đăng ký thường trú phường X, TP. Th, tỉnh Th. vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 29/02/2020, tại khu vực ấp Thuận Đông, xã Lợi Thuận, huyện B, tỉnh T, Công an huyện B phối hợp cùng Đội 389 huyện B tuần tra phát hiện xe ô tô hiệu TOYOTA, loại VIOS, gắn biển số 51H-xxxxx do Nguyễn Văn C điều khiển có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Khi phát hiện lực lượng Công an, C bỏ chạy và để lại xe ô tô gắn biển số 51H-xxxxx bên trong có chứa 6.550 bao thuốc lá điếu hiệu 555 cùng một số vật chứng có liên quan.
Nguyễn Văn C là tài xế lái xe ô tô chạy dịch vụ, vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 29/02/2020, khi C đang đậu xe ô tô biển số 98A-xxxxx tại bến xe An Sương thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh thì được một người đàn ông tên Kh (không rõ lai lịch) thuê vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu từ huyện B, tỉnh T đến bến xe An Sương thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 800.000 đồng/chuyến, C đồng ý. Đồng thời Kh đưa cho C 02 cặp biển số giả gồm 61A-xxxxx và 51H-xxxxx (biển số trước và sau), C cất giấu trong xe ô tô biển số 98A-xxxxx. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, C tháo rời và cất 02 biển số 98A-xxxxx vào cốp xe rồi gắn 02 cặp biển số giả 61A-xxxxx và 51H-xxxxx vào xe ô tô, trong đó biển số 61A-xxxxx nằm phía trong, biển số 51H-xxxxx nằm phía ngoài, C điều khiển xe đến khu vực đường đất gần khu công nghiệp TMTC thuộc ấp Thuận Đông, xã Lợi Thuận, huyện B, tỉnh T nhận thuốc lá. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, khi đang chất 6.550 bao thuốc lá điếu hiệu 555 vào xe ô tô thì bị Công an phát hiện, C bỏ chạy thoát và trốn đến ngày 07/4/2022 bị bắt giữ theo quyết định truy nã tại phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Về nguồn gốc xe ô tô biển số 98A-xxxxx thuộc sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Văn T1. Ngày 23/8/2018, anh T1 thế chấp Giấy chứng nhận đăng ký xe tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần (TMCP) TP (TBank) – chi nhánh H. Ngày 27/8/2018, anh T1 ký hợp đồng cho C thuê xe với giá 5.000.000 đồng/tháng. Đến ngày 18/02/2020, anh T1 tiếp tục ký hợp đồng cho C thuê xe với giá 5.000.000 đồng/tháng, thời hạn 12 tháng.
Kết luận giám định số 332/KL-KTHS ngày 09/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Số khung, số máy xe ô tô TOYOTA Vios, màu vàng, số khung RL4B23F37J5046274, số máy 2NRX358133 không bị đục xóa, cắt hàn.
Kết luận giám định số 634/KL-KTHS ngày 15/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận:
- Dấu vết đường vân (ký hiệu: 3) với dấu vân tay in ở ô ngón cái phải; dấu vết đường vân (ký hiệu: 6) với dấu vân tay in ở ô ngón giữa phải; dấu vết đường vân (ký hiệu: 8, 10, 11) với dấu vân tay in ở ô ngón trỏ trái; dấu vết đường vân (ký hiệu: 2, 9) với dấu vân tay in ở ô ngón giữa trái trên danh, chỉ bản họ tên: Nguyễn Anh Kh, sinh ngày 09/6/1991, nơi ĐKTT: Ấp 1, xã Bình Lộc, TX Long Khánh, Đồng Nai là của cùng một người.
- Dấu vết đường vân (ký hiệu: 5, 7) với dấu vân tay in ở ô ngón giữa phải; dấu vết đường vân (ký hiệu: 4) với dấu vân tay in ở ô ngón nhẫn phải trên chỉ bản họ tên: Nguyễn Văn C, sinh ngày 02/10/1985, nơi cư trú: Thôn Hà Mỹ, Chu Điện, N, B là của cùng một người.
- Dấu vết đường vân (ký hiệu: 1) không trùng với dấu vân tay của 03 người có tên trong Quyết định trưng cầu gửi giám định.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh T tiến hành triệu tập và làm việc với Nguyễn Anh K, sinh năm 1991, địa chỉ ấp 1, xã Bình Lộc, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, qua làm việc Kh khai nhận vào ngày 29/02/2020, Kh có đón xe ô tô hiệu VIOS màu vàng nâu (không nhớ biển số) do một người đàn ông (không rõ lai lịch) điều khiển, cùng vợ là Nguyễn Thị Kim Th đến Bệnh viện 115 khám bệnh. Do trên xe ô tô có để 02 biển số 51H-xxxxx và 61A-xxxxx vướng chỗ ngồi nên Kh có cầm 02 biển số xe để chỗ khác nên trên biển số xe có dấu vân tay của Kh. Qua nhận dạng, Nguyễn Văn C xác định Nguyễn Anh Kh không phải là người thuê C vận chuyển hàng cấm.
* Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
* Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn C thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Nguyễn Văn C có cậu ruột tên Nguyễn Văn Phơi là thương binh.
* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Có bản kê kèm theo.
* Nguyễn Văn C không có tài sản nên không tiến hành kê biên.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, cùng vật chứng bị thu giữ, như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại bản cáo trạng số: 53/CT-VKSBC ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội: “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38của Bộ luật Hình sự; Xử phạt Nguyễn Văn C từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 29/02/2020, tại khu vực đường đất gần khu công nghiệp TMTC thuộc ấp Thuận Đông, xã Lợi Thuận, huyện B, tỉnh T, Nguyễn Văn C thực hiện hành vi vận chuyển 6.550 bao thuốc lá điếu hiệu 555 thì bị bắt quả tang. Bị cáo bỏ chạy thoát và trốn đến ngày 07/4/2022 bị bắt giữ theo quyết định truy nã tại phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và quản lý hành chính của Nhà nước nên đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.
[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo xâm phạm sự quản lý của Nhà nước đối với thuốc lá điếu nhập khẩu. Bị cáo nhận thức rõ hành vi vận chuyện thuốc lá điếu nhập lậu là xâm phạm chế độ quản lý độc quyền thuốc lá của Nhà nước nhưng vì hám lợi, bị cáo đã thực hiện tội phạm. Do đó cần có hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
- Tình tiết tăng nặng: không có.
- Tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành thẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Xét đề nghị của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên Tòa đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 4 Điều 191 của Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền là hình phạt bổ sung”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện bị cáo không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Ngoài lần bị bắt, bị cáo khai nhận còn 01 lần khác vận chuyển thuốc lá điếu cho Kh, nhưng ngoài lời khai của bị cáo không có chứng cứ nào khác nên không xử lý.
[8] Đối với người đàn ông tên Kh thuê Nguyễn Văn C vận chuyển thuốc lá do không rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B chưa làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau. Đối với Nguyễn Anh Kh, không có căn cứ xác định Nguyễn Anh Kh có thuê Nguyễn Văn C vận chuyển hàng cấm nên không đề nghị xử lý.
[9] Đối với hành vi gắn biển số không do cơ quan có thẩm quyền cấp của Nguyễn Văn C, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã chuyển hồ sơ và vật chứng cho Công an huyện B xử lý theo quy định.
[10] Đối với xe ô tô biển số 98A-xxxxx, anh Nguyễn Văn T1 không biết việc Nguyễn Văn C tự ý điều khiển để vận chuyển thuốc lá điếu nên không đề nghị xử lý.
[11] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
- Đối với 6.550 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu 555 là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) xe ô tô biển số 98A-xxxxx, nhãn hiệu TOYOTA, loại VIOS, số máy 2NRX358133, số khung RL4B23F37J5046274, màu nâu vàng đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận kiểm định số: 0804568, biển đăng ký 98A - xxxxx mang tên Nguyễn Văn T1 là tài sản của anh T1, anh T1 không biết bị cáo C sử dụng vào việc vận chuyển thuốc lá nhập lậu nên trả lại cho anh T1. Việc thế chấp xe ô tô trên cho Ngân hàng T chi nhánh H nếu có tranh chấp có thể giải quyết trong vụ án khác.
- Đối với 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2, số: 01016806xxxx; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 15208xxxx mang tên Lê Đức D1, sinh năm: 1993, đăng ký thường trú: phường X, thành phố Th, tỉnh Th là giấy tờ tùy thân của anh D1 đã làm mất. Do anh D1 chỉ yêu cầu nhận lại giấy phép lái xe nên trả lại cho anh D1 giấy phép lái xe hạng B2 và tịch thu tiêu hủy giấy chứng minh nhân dân.
- [9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08 tháng 4 năm 2022.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy 6.550 (sáu nghìn năm trăm năm mươi) bao thuốc lá hiệu 555 và 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 15208808 mang tên Lê Đức D1, sinh năm: 1993, đăng ký thường trú: phường X, thành phố Th, tỉnh Th.
- Trả lại 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, loại VIOS, số máy 2NRX358133, số khung RL4B23F37J5046274, màu nâu vàng biển số: 98A - xxxxx; 01 giấy chứng nhận kiểm định số: 0804568, biển đăng ký 98A - xxxxx cho anh Nguyễn Văn T1.
- Trả lại 01 (một) giấy phép lái xe hạng B2, số: 01016806xxxx cho anh Lê Đức D1.
(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/7/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh T).
3. Việc thế chấp xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, loại VIOS, số máy 2NRX358133, số khung RL4B23F37J5046274, màu nâu vàng biển số: 98A - xxxxx giữa anh Nguyễn Văn T1 với Ngân hàng T chi nhánh H nếu có tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết trong vụ án khác.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo Nguyễn Văn C, anh Đỗ Hoài D có quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Nguyễn Văn T1, anh Lê Đức D1 có quyền khác cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 59/2022/HS-ST
Số hiệu: | 59/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về