TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐỐP, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 58/2024/HS-ST NGÀY 14/08/2024 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 14 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2024/HSST ngày 18 tháng 7 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2024; Đối với bị cáo:
Họ và tên: Tàng Minh C; Tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; Sinh năm:
2003, tại: Bình Phước; Nơi thường trú: ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Họ và tên cha: Tàng Minh T, sinh năm 1975; Họ và tên mẹ: Nông Thị L, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ con; bị cáo có 02 anh em, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 1999; Tiền án; Tiền sự: Không;
Bị cáo Tàng Minh C bị tạm giữ từ ngày 19/4/2024 đến ngày 26/4/2024 được tại ngoại cho đến nay – có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Tàng Minh T, sinh năm 1999;
địa chỉ: ấp T, xã T huyện B, tỉnh Bình Phước – có mặt.
- Người chứng kiến: ông Nguyễn Huy H, sinh năm 1975; địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước. – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 19/4/2024, Tàng Minh C điểu khiển xe mô tô hiệu Honđa, loại Future, biển số 93G1-310.xx đến uống nước tại quán nước ven đường thuộc Thôn 4, xã T, huyện B, tỉnh bình Phước. Tại đây, C gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch) bán pháo, C đặt mua 4.000.000đ (bốn triệu đồng) pháo nổ để mang về sử dụng. Sau đó người thanh niên điều khiển xe mô tô (không rõ đặc điểm chủng loại) dẫn C đến lô cao su ở Thôn 4, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước để lấy Pháo. Số pháo được đóng sẵn trong thùng giấy, để dưới gốc cây cao su, C đến kiểm tra, nhận pháo và đưa cho người thanh niên 4.000.000đ. Nhận tiền xong, người thanh niên điều khiển xe bỏ đi. C lấy thùng giấy đựng pháo bỏ lên gác ba ga xe mô tô và điều khiển xe về nhà. Trên đường về đến Thôn 3, xã T, huyện B thì C bị Công an huyện Bù Đốp kiểm tra bắt giữ người, xe mô tô và toàn bộ số pháo gồm 19 vật (không xác định hình dạng) bên ngoài dán giấy, cao 12cm, có sợi dây màu đỏ tổng khối lượng 8,45kg.
Tại Bản án kết luận giám định số: 427/KL-KTHS ngày 24/4/2024 xác định: 19 (mười chín) vật (khối), ký hiêu M được niêm phong gửi giám định đều là pháo nổ (pháo hoa nổ); có chứa thuốc pháo, khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng nhiều màu sắc. Tổng khối lượng 8,45kg.
Cáo trạng số 52/CTr-VKS ngày 15/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đốp truy tố bị cáo Tàng Minh C về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đốp sau khi xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như trong nội dung bản cáo trạng và đề nghị:
Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự và đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 06(sáu) đến 09(chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc ổn định, không có thu nhập ổn đinh nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.
Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.
Về vật chứng: Vẫn giữ nguyên như nội dung bản cáo trạng.
Bị cáo không tham gia tranh luận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Tàng Minh T đề nghị Hội đồng xét xử trả lại xe mô tô do anh không biết C mượn xe để đi vận chuyển pháo nổ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Bù Đốp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đốp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy đinh của pháp luật.
[2] Về nội dung: Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 19/4/2024 Tàng Minh C đến Thôn 4, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước gặp 01 người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 4.000.000đ (bốn triệu đồng) pháo nổ để mang về sử dụng. C được người thanh niên giao pháo tại lô cao su thuộc thôn 4, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước. Sau khi nhận pháo nổ và giao tiền cho người thanh niên, C đưa pháo lên xe và chở về nhà, trên đường về thì bị bắt giữ. Tổng khối lượng pháo bị thu giữ là 8,45kg.
Tại Bản án kết luận giám định số: 427/KL-KTHS ngày 24/4/2024 xác định: 19 (mười chín) vật (khối), ký hiêu M được niêm phong gửi giám định để là pháo nổ (pháo hoa nổ); có chứa thuốc pháo, khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng nhiều màu sắc. Tổng khối lượng 8,45kg.
Hành vi vận chuyển pháo nổ như đã nêu trên của Tàng Minh C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại Điều 191 của Bộ luật hình sự. bị cáo Tàng Minh C có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi vận chuyển và sử dụng pháo nổ là vi phạm pháp luật nhưng vì đua đòi, muốn thể hiển bản thân mà bị cáo đã cố ý mua và vận chuyển pháo về nhà với mục đích sử dụng, tổng khối lượng pháo bị cáo vận chuyển là 8,45kg. Do đó, Cáo trạng số 52/CTr-VKS ngày 15/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đốp và luận tội truy tố bị cáo Tàng Minh C về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, từ hành vi vận chuyển pháo nổ, sử dụng, đốt pháo sẽ gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây nguy hiểm cho xã hội. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cần xử phạt bị cáo mức án tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để răn đe, giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xét.
[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có ông nội là bệnh binh có công với cách mạng; bị cáo là người dân tộc thiểu số có học vấn thấp nên hiểu biết pháp luật chưa cao; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ có hộ khẩu và lý lịch rõ ràng nên cần áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc ổn định, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Vật chứng của vụ án: Tổng khối lượng pháo thu giữ là 8,45kg, sau khi giám định còn lại 5,35kg, xét đây là hàng cấm nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 thùng giấy kích thước 25cm x 39cm x 17cm, bị cáo dùng để dựng pháo nổ, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 (một) xe mô tô, hiệu Honđa, loại Future, màu trắng đen, biến số 93G1-310.xx, số khung RLHJC7659NY136708, số máy JC90E0295429, biển số 93G1-310.xx là xe mô tô của Tàng Minh T, C sử dụng xe để vận chuyển pháo nổ anh T không biết nên cần trả lại xe mô tô cho anh T.
[7] Xét đề nghị mức hình phạt và các vấn đề khác của vị đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.
Đối với người thanh niên bán pháo cho C, chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, có kết quả sẽ xử lý sau là phù hợp.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Tàng Minh C phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt Tàng Minh C 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16(mười sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 14/8/2024).
Giao bị cáo Tàng Minh C về Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình của bị cáo Tàng Minh C có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giao dục bị cáo Tàng Minh C.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án trên đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Tịch thu tiêu hủy: 5,35kg pháo nổ còn lại sau giám định; 01 thùng giấy kích thước 25cm x 39cm x 17cm.
Trả lại: 01(một) xe mô tô, hiệu Honđa, loại Future, màu trắng đen, biến số 93G1-310.xx, số khung RLHJC7659NY136708, số máy JC90E0295429 cho Tàng Minh T (Số vật chứng trên đã được giao nhận cho Chi cục thi hành án dân sự dân sự huyện Bù Đốp theo Biên bản giao nhận vật chứng số 0007932 ngày 22 tháng 7 năm 2024).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 58/2024/HS-ST
Số hiệu: | 58/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về