Bản án 48/2022/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 48/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Long An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2022/QĐST- HS ngày 08 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Lương Trung N - Sinh năm 1986, Long An. Nơi cư trú: Ấp 2, xã TL, huyện BL, tỉnh Long An. Nghề nghiệp: Lái xe. Trình độ văn hóa: Lớp 09/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lương Văn N1 (chết) và bà Nguyễn Thị D. Vợ: Hứa Xuân K, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không. Bị tạm giữ, tạm giam lần 1 từ ngày 28-4-2022 đến ngày 04-7-2022, tạm giam lần 2: Từ ngày 31-8-2022 đến nay. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Hứa Xuân K - Sinh năm 1986 - Nơi cư trú: Ấp 2, xã TL, huyện BL, tỉnh Long An. (Có mặt).

2. Ông Phạm T - Sinh năm 1959 - Nơi cư trú: 3xx/1/19D LVS, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

3. Ông Phạm Hưng P - Sinh năm 1991 - Nơi cư trú: 4xx/21/11 HVB, phường A, quận PN, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

4. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên dịch vụ vận tải PHC. Địa chỉ trụ sở: 11xx/60 PTH, phường D, quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa tháng 4/2022, Lương Trung N gặp người đàn ông tên S (không xác định được nhân thân, lai lịch) mà N quen trước đó. Do thất nghiệp nên N nhờ S tìm giúp việc làm. S cho N số điện thoại có số đuôi 721, kêu N liên hệ tìm việc làm. Sau đó, N dùng số điện thoại 0343400xxx gọi số điện thoại nói trên thì gặp một người phụ nữ (không xác định được nhân thân, lai lịch), người này thuê N vận chuyển thuốc lá nhập lậu, thỏa thuận tiền công mỗi chuyến 500.000 đồng và ngày 27-4-2022 đến chợ TM (ấp 4, xã MQT, huyện H) để nhận việc, N đồng ý.

Như thỏa thuận, 19 giờ 30 ngày 27-4-2022, N đi xe ôm đến khu vực chợ TM, khi liên lạc, người phụ nữ trên yêu cầu N đến tiệm rửa xe gần cây xăng TM lấy ô tô nhãn hiệu Toyota, số loại Camry, màu sơn đen, biển số 51H-031.xx đã để sẵn. Trong đêm 27-4-2022, N thực hiện trót lọt 01 chuyến vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu giao tại khu vực HM, Thành phố Hồ Chí Minh (đã nhận tiền công 500.000 đồng có sẵn trong cốp trước xe); Sau đó, theo sự chỉ dẫn của người phụ nữ trên, N điều khiển xe ô tô về khu vực khu dân cư gần cầu MB chờ.

Đến 03 giờ 40 phút ngày 28-4-2022, người phụ nữ trên điện thoại và yêu cầu N điều khiển xe ô tô về hướng ấp 3 xã MQT, đi khoảng 03km rẽ vào đường đá xanh và rẽ vào sân của một trường tiểu học và chờ tại đây. Lúc này có 05 người đàn ông điều khiển xe mô tô chở thuốc lá đến và tự cất giấu lên xe ô tô. Sau khi thuốc lá được cất giấu xong, theo yêu cầu của người phụ nữ trên, N điều khiển xe ô tô chở thuốc lá điếu nhập lậu về hướng xã TL huyện BL để giao; Tuy nhiên, khoảng 04 giờ 10 phút ngày 28-4-2022, khi đến đoạn cầu bà V (ấp 2, xã MQT) thì N bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ tang vật liên quan.

Tại thời điểm bắt quả tang, dưới sự chứng kiến của N, lực lượng Công an phát hiện bên trong xe ô tô 51H-031.xx chứa 8.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (6.500 bao nhãn hiệu Jet, 1.000 bao nhãn hiệu 555 và 750 bao nhãn hiệu Captain Black).

Tang vật tạm giữ: 8.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (6.500 bao nhãn hiệu Jet, 1.000 bao nhãn hiệu 555 và 750 bao nhãn hiệu Captain Black), 01 xe ô tô nhãn hiệu Toyota, số loại Camry, màu sơn đen, biển số 51H-031.xx; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh sim số 0343400xxx bị hư hỏng do ngập nước.

Quá trình điều tra xác định: Xe ô tô 51H-031.xx chủ sở hữu là ông Phạm T; Tháng 02/2022, ông T lập ủy quyền giao xe cho con là ông Phạm Hưng P. Ngày 28- 02-2022, ông P lập hợp đồng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên PHC (sau đây gọi tắt là Công ty PHC) thuê xe, thời gian từ ngày 01-3-2022 đến ngày 01- 3-2023, giá thuê mỗi tháng 8.500.000 đồng, mục đích thuê để làm phương tiện kinh doanh. Ngày 20-4-2022, Công ty PHC lập hợp đồng cho bà Nguyễn Thị Mỹ H1 (sinh năm 1975, hộ khẩu thường trú ấp ML, xã MTT, huyện H) thuê lại, thời gian thuê đến ngày 20-5-2022, giá thuê 13.000.000 đồng, mục đích thuê làm phương tiện kinh doanh. Khoảng giữa tháng 5/2022, qua giám sát định vị của xe ô tô 51H-031.xx, Công ty PHC phát hiện xe ô tô chỉ đậu tại Công an huyện H mà không di chuyển, không liên lạc được với bà H1 nên Công ty liên hệ Công an huyện H.

Qua làm việc, ông Phạm T, ông Phạm Hưng P và đại diện Công ty PHC xác định không quen biết, không có mối liên hệ và không liên quan đến việc N dùng xe ô tô nói trên để vận chuyển hàng cấm, yêu cầu được nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác. Qua xác minh, không xác định được người tên Nguyễn Thị Mỹ H1 sinh năm 1975 tạm trú và thường trú trên địa bàn xã MTT. Mặc khác, N khai nhận xe tại tiệm rửa xe theo chỉ dẫn của người phụ nữ nên không xác định được nguồn gốc xe ô tô 51H-031.xx.

Ngày 01-6-2022, bà Hứa Xuân K (vợ của N) tự nguyện giao nộp 500.000 đồng, khai nhận tiền do N thu lợi bất chính từ hành vi vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu ngày 27-4-2022.

Về vật chứng: Ngày 29-6-2022, Cơ quan điều tra đã trả cho ông Phạm Hưng P xe ô tô 51H-031.xx theo Quyết định xử lý vật chứng số 18 ngày 14-6-2022. Chi cục Thi hành án dân sự huyện H đang tạm giữ 8.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (6.500 bao nhãn hiệu Jet, 1.000 bao nhãn hiệu 555 và 750 bao nhãn hiệu Captain Black), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh sim số 0343400xxx và 500.000 đồng.

Cáo trạng số 35/CT-VKSĐH ngày 05-7-2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Lương Trung N về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo N khai nhận đã thực hiện hành vi vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu và bị bắt quả tang như nội dung Cáo trạng đã truy tố; Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, xin được giảm nhẹ hình phạt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hứa Xuân K trình bày: Bà không biết việc bị cáo N (chồng bà) vận chuyển hàng cấm. Ngày 01-6-2022, theo yêu cầu của bị cáo N, bà đến Công an huyện H nộp số tiền 500.000 đồng, việc nộp tiền là tự nguyện, bà không yêu cầu bị cáo N trả lại.

- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 18-5-2022, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm T trình bày: Ông là chủ sở hữu xe ô tô 51H-031.xx. Tháng 02/2022 do ít sử dụng xe, ông giao xe lại cho con là Phạm Hưng P cho thuê. Ông không quen biết, không có mối liên hệ và không liên quan đến việc bị cáo N dùng xe ô tô nói trên để vận chuyển hàng cấm. Ông chỉ yêu cầu nhận lại xe, không yêu cầu gì trong vụ án này.

- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 18-5-2022, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Hưng P trình bày: Chủ sở hữu xe ô tô 51H-031.xx là ông Phạm T (cha ruột ông). Tháng 02/2022, ông T giao xe để ông cho thuê. Ngày 28-02-2022, ông lập hợp đồng cho Công ty PHC thuê xe từ ngày 01-3-2022 đến ngày 01-3-2023, giá thuê mỗi tháng 8.500.000 đồng, mục đích thuê để làm phương tiện kinh doanh. Ông không quen biết, không có mối liên hệ và không liên quan đến việc bị cáo N dùng xe ô tô nói trên để vận chuyển hàng cấm. Ông chỉ yêu cầu nhận lại xe, không yêu cầu gì trong vụ án này.

- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 18-5-2022, bà Lê Thị Kim C đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty PHC trình bày: Ngày 28-02-2022, ông Phạm Hưng P lập hợp đồng cho Công ty PHC thuê xe ô tô 51H-031.xx, thời gian từ ngày 01-3-2022 đến ngày 01-3-2023, giá thuê xe mỗi tháng 8.500.000 đồng, mục đích thuê để làm phương tiện kinh doanh. Ngày 20-4-2022, Công ty PHC lập hợp đồng cho bà Nguyễn Thị Mỹ H1 (sinh năm 1975, hộ khẩu thường trú ấp ML, xã MTT, huyện H) thuê lại, thời gian thuê xe đến ngày 20-5-2022, giá thuê 13.000.000 đồng, mục đích thuê làm phương tiện kinh doanh. Khoảng giữa tháng 5/2022, qua giám sát định vị của xe ô tô 51H-031.xx, Công ty PHC phát hiện xe ô tô chỉ đậu tại Công an huyện H mà không di chuyển, Công ty liên hệ với bà H1 nhưng không liên lạc được nên liên hệ Công an huyện H. Công ty PHC xác định không quen biết, không có mối liên hệ và không liên quan đến việc bị cáo N dùng xe ô tô nói trên để vận chuyển hàng cấm. Công ty yêu cầu nhận lại xe, không yêu cầu gì trong vụ án này.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Lương Trung N phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”; Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 32 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

+ Về các biện pháp tư pháp, căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, các Điều 46, 47 và 48 của Bộ luật Hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 8.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (6.500 bao nhãn hiệu Jet, 1.000 bao nhãn hiệu 555 và 750 bao nhãn hiệu Captain Black); Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu xanh sim số 0343400xxx; Trả lại bà K 500.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Quyết định phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can và Cáo trạng truy tố bị cáo của Viện kiểm sát đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Khoảng 04 giờ 10 phút ngày 28-8-2021, tại ấp 2 xã MQT, huyện H, tỉnh Long An, Lương Trung N bị bắt quả tang đang vận chuyển 8.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (6.500 bao nhãn hiệu Jet, 1.000 bao nhãn hiệu 555 và 750 bao nhãn hiệu Captain Black) từ ấp 3, xã MQT, huyện H, tỉnh Long An đến xã TL, huyện BL, tỉnh Long An.

[3] Tại phiên toà, bị cáo N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp khách quan với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập lúc 04 giờ 10 phút ngày 28-4-2022, lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

[4] Bị cáo N đủ lý trí và năng lực để nhận thức được hành vi vận chuyển hàng cấm là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Đã đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo N phạm vào tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Cáo trạng số 35/CT-VKSĐH ngày 05-7-2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố bị cáo N với các tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[6] Hành vi “Vận chuyển hàng cấm” của bị cáo N là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước trong quản lý sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm. Không những thế, hành vi của bị cáo N còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo N cần được xử lý nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[7] Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là lao động chính, phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo N là có căn cứ pháp luật.

[9] Đối với việc bị cáo N khai nhận đã vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu vào ngày 27-4-2022 trót lọt, thu lợi bất chính 500.000 đồng, ngoài lời khai bị cáo không có tài liệu, chứng cứ khác để chứng minh nên không thể xem xét xử lý đối với hành vi của bị cáo và số tiền 500.000 đồng vợ bị cáo nộp. Nhằm tránh bỏ lọt tội phạm không được xử lý, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với người phụ nữ thuê bị cáo N vận chuyển hàng cấm, người đàn ông tên S, những người giao, nhận thuốc lá điếu nhập lậu mà bị cáo N khai, không xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H tách ra xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp. Nhằm tránh bỏ lọt tội phạm không được xử lý, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với ông Phạm T, ông Phạm Hưng P và Công ty PHC không biết việc bị cáo N sử dụng ô tô 51H-031.xx để vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu ngày 28-4- 2022 nên không truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp.

[12] Về các biện pháp tư pháp, căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, các Điều 46, 47 và 48 của Bộ luật Hình sự, xét thấy:

[12.1] Xe ô tô 51H-031.xx Cơ quan điều tra đã trả cho ông Phạm Hưng P theo Quyết định xử lý vật chứng số 18 ngày 14-6-2022 và Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29-6-2022 là phù hợp nên không tiếp tục đề cập;

[12.2] 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh sim số 0343400xxx, là phương tiện liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ nhà nước là phù hợp;

[12.3] 8.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (6.500 bao nhãn hiệu Jet, 1.000 bao nhãn hiệu 555 và 750 bao nhãn hiệu Captain Black) là loại hàng hóa cấm tàng trữ, lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp;

[12.4] Số tiền 500.000 đồng, là tiền của bà K, không có căn cứ xác định là tiền thu lợi bất chính nên trả lại cho bà K là phù hợp;

[12.5] Vật chứng còn tạm giữ do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 27/QĐ-VKSĐH ngày 05-7-2022, Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05-8-2022 và Biên lai thu tiền số 0001308 ngày 08-8-2022.

[13] Về trách nhiệm dân sự: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm T, ông Phạm Hưng P và Công ty PHC không có yêu cầu gì trong vụ án này nên không có căn cứ xem xét. Nếu xảy ra tranh chấp, các đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[14] Về án phí, căn cứ các Điều 135 và 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xét thấy: Bị cáo N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lương Trung N phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”;

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 32 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, các Điều 299 và 326 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Trung N 05 (năm) năm tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giam lần 2 (ngày 31-8-2022), được khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam lần 1 (từ ngày 28-4-2022 đến ngày 04-7-2022).

- Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tiếp tục tạm giam bị cáo Lương Trung N 45 (Bốn mươi lăm) ngày sau khi tuyên án, để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

- Về các biện pháp tư pháp, áp dụng các Điều 46, 47 và 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 8.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (6.500 bao nhãn hiệu Jet, 1.000 bao nhãn hiệu 555 và 750 bao nhãn hiệu Captain Black).

+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh sim số 0343400xxx;

+ Trả lại cho bà Hứa Xuân K 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng);

Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H đang quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 27/QĐ-VKSĐH ngày 05-7-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05-8-2022 của Công an huyện H và Biên lai thu tiền số 0001308 ngày 08-8-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.

- Về án phí: Áp dụng các Điều 135 và 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lương Trung N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng các Điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (Ngày 23-9-2022). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2022/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:48/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;