TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 46/2023/HS-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2023/TLST-HS, ngày 31 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2023/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:
Ngô Q, sinh ngày 01/01/1990 tại Đ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Ư, xã E, huyện R, Thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Ngô T, sinh năm 1962 và bà Bùi Y, sinh năm 1962; vợ: Nguyễn U, sinh năm 1991; con: 02 người con (lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2018); tiền sự: Chưa có; tiền án: Chưa có; tạm giữ: Ngày 28/6/2023; tạm giam: Từ ngày 03/7/2023 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố G, tỉnh Đ (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa cho bị cáo là: Ông Lê Văn Lợi – Luật sư thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ, Chi nhánh số 2 (có mặt).
Địa chỉ: Số 08 đường Võ Trường Toản, phường 1, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đ.
- Người chứng kiến:
1. Lê Văn A, sinh năm 1982 (vắng mặt);
2. Trình S, sinh năm 1966 (vắng mặt).
Cùng nơi cư trú: Ấp D, xã F, thành phố G, tỉnh Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 27/6/2023, Đồn Biên phòng Bình Thạnh phối hợp với Đội Đặc nhiệm Phòng phòng chống ma túy và tội phạm - Bộ đội Biên phòng tỉnh Đ cùng Công an thành phố G thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên tuyến biên giới. Khi đến thủy phận sông Sở Thượng thuộc ấp D, xã F, thành phố G phát hiện Ngô Q, đang điều khiển xuồng máy (loại vỏ lãi Composite) chạy từ hướng cầu Mương Ba Ánh thuộc ấp 1, xã Thường Lạc, huyện G đến khu vực bến đò Vàm Xếp trên sông Sở Thượng thuộc ấp Bình Hòa Trung, xã F, thành phố G có biểu hiện nghi vấn nên dừng phương tiện kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trên xuồng có 5.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet, 1.000 bao thuốc lá điếu hiệu Neslson nên lực lượng chức năng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
- Vật chứng vụ án, Cơ quan điều tra thu giữ: 2.000 (hai nghìn) b ao thuốc lá điếu hiệu Hero, 2.000 (hai nghìn) bao thuốc lá điếu hiệu Jet, 1.000 (một nghìn) bao thuốc lá điếu hiệu Nelson, 20 (hai mươi) túi (bao) nylon bằng mủ nhựa màu trắng, đã qua sử dụng, 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu SAMSUNG, màu trắng đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động, 01 (một) vỏ lãi Composide, nhãn hiệu Hoàng Vũ Tài, màu xanh lá cây, chiều dài 7,2m, hiều rộng 0,95m, chiều sâu 0,3m đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động, 01 (một) máy xăng, nhãn hiệu Hinota 18HP, màu cam - đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động.
Quá trình điều tra, Ngô Q khai nhận số lượng 5.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu mà Đồn Biên phòng Bình Thạnh thu giữ là của Đoàn chở thuê với giá 400.000 đồng/chuyến cho một người thanh niên tên An, không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể. Xuồng máy là của An giao cho Đoàn điều khiển đến khu vực biên giới Campuchia gặp một người phụ nữ tên Phượng không rõ họ tên và địa chỉ lấy 5.000 bao thuốc lá vận chuyển về huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, trên đường di chuyển thì bị bắt.
hiện.
Trong quá trình điều tra, Ngô Q thành khẩn khai báo hành vi phạm tội đã thực Tại bản cáo trạng số: 50/CT-VKSTPHN ngày 30 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Đ truy tố bị cáo Ngô Q về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G thực hành quyền công tố khẳng định hành vi của bị cáo Ngô Q đã phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Ngô Q về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù.
Đối với việc Ngô Q khai nhận số lượng 5.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu bị bắt giữ chở thuê cho một người thanh niên tên An. An liên lạc lấy số thuốc lá này của một người phụ nữ tên Phượng không rõ họ tên và địa chỉ ở Campuchua, sau đó vận chuyển thuê về huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Do không rõ đối tượng An và Phượng, Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử lý.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo sống bằng nghề làm thuê, thu nhập không ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy: 5.000 (năm nghìn) bao thuốc lá điếu gồm: 2.000 (hai nghìn) bao thuốc lá điếu hiệu Hero; 2.000 (hai nghìn) bao thuốc lá điếu hiệu Je t; 1.000 (một nghìn) bao thuốc lá điếu hiệu Nelson, chưa qua sử dụng (đã được niêm phong), 20 (hai mươi) túi (bao) nylon bằng mủ nhựa màu trắng, đã qua sử dụng; Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu SAMSUNG, màu trắng đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động (đã được niêm phong), 01 (một) vỏ lãi Composide, nhãn hiệu Hoàng Vũ Tài, màu xanh lá cây, chiều dài 7,2m, hiều rộng 0,95m, chiều sâu 0,3m đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động, 01 (một) máy xăng, nhãn hiệu Hinota 18HP, màu cam - đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động.
Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Q đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 27/6/2023 và các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Luật sư Lê Văn Lợi là người bào chữa cho bị cáo Ngô Q, xác định hành vi của bị cáo đã phạm tội “Vận chuyển hang cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo thống nhất với nội dung luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Q đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội. Do bản thân muốn có tiền tiêu xài cá nhân, Ngô Q đã trực tiếp thực hiện hành vi vận chuyển trái phép 5.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu, gồm 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet và 1.000 bao thuốc lá điếu hiệu Nelson, nhằm mục đích lấy tiền công vận chuyển.
Căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 27/6/2023 và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Ngô Q đã phạm tội “Vận chuyển hàng cấm ” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát.
Điều 191. Tội vận chuyển hàng cấm “1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2 ...;
3. Phạm tội thuộc các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) ...;
b) Thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên…”;
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hiện nay, tình hình vận chuyển, buôn bán hàng cấm (trong đó có thiều lá điếu nhập lậu) trên các tuyến biên giới nói chung và trên địa bàn thành phố G nói riêng xảy ra với tính chất phức tạp. Nhằm để ổn định trật tự trị an ở địa phương, góp phần vào công cuộc phòng, chống và ngăn ngừa tội phạm, Hội đồng xét xử xét thấy phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
[3] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền sự, tiền án. Xuất phát từ việc muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội vận chuyển hàng cấm nhằm mục đích để có tiền công tiêu xài cho bản thân, điều đó thể hiện bị cáo thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện nhân cách, thể hiện bản chất xem thường pháp luật.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là thành khẩn khai báo hành vi phạm tội đã thực hiện và 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (bị cáo thuộc diện gia đình có công cách mạng, có cha ruột là bộ đội phục viên), Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Xã hội chủ nghĩa.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng một thời gian nhất định, để có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục cho bị cáo thấy được lỗi lầm của mình, phấn đấu trở thành con người tốt có ích cho gia đình và xã hội. Có như thế mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho những ai có ý định phạm tội như bị cáo.
[6] Đối với việc Ngô Q khai nhận số lượng 5.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu bị bắt giữ chở thuê cho một người thanh niên tên An. An liên lạc lấy số thuốc lá này của một người phụ nữ tên Phượng không rõ họ tên và địa chỉ ở Campuchua, sau đó vận chuyển thuê về huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Do không rõ đối tượng An và Phượng, Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau, nên Hội đồng xét xử không xem xét, xử lý.
[7] Về vật chứng:
Đồi với số lượng thuốc lá điếu nhập lậu liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo là 5.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu, gồm 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet và 1.000 bao thuốc lá điếu hiệu Nelson và 20 (hai mươi) túi (bao) nylon bằng mủ nhựa màu trắng, đã qua sử dụng. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy là phù hợp pháp luật.
Đối với 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu SAMSUNG, màu trắng của Ngô Q và 01 (một) vỏ lãi, nhãn hiệu Hoàng Vũ Tài, màu xanh lá cây, chiều dài 7,2m, hiều rộng 0,95m, chiều sâu 0,3m kèm theo 01 (một) máy xăng, nhãn hiệu Hinota 18HP, màu cam - đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động là công cụ, phương tiện Đoàn sử dụng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước là phù hợp quy định của pháp luật.
[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo sống bằng nghề làm thuê, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự.
Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ và phù hợp pháp luật.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Nhưng do bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Ngô Q phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Xử phạt bị cáo Ngô Q 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ: Ngày 28/6/2023.
2.Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 5.000 (năm nghìn) bao thuốc lá điếu gồm: 2.000 (hai nghìn) bao thuốc lá điếu hiệu Hero; 2.000 (hai nghìn) bao thuốc lá điếu hi ệu Jet; 1.000 (một nghìn) bao thuốc lá điếu hiệu Nelson, chưa qua sử dụng (đã được niêm phong), 20 (hai mươi) túi (bao) nylon bằng mủ nhựa màu trắng, đã qua sử dụng.
Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu SAMSUNG, màu trắng đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động (đã được niêm phong), 01 (một) vỏ lãi Composide, nhãn hiệu Hoàng Vũ Tài, màu xanh lá cây, chiều dài 7,2m, hiều rộng 0,95m, chiều sâu 0,3m đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động, 01 (một) máy xăng, nhãn hiệu Hinota 18HP, màu cam - đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng hoạt động.
(Tất cả vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án Dân sự thành phố G đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/8/2023).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bị cáo Ngô Q được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/9/2023).
Bản án 46/2023/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 46/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về