TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 27/04/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 27 tháng 4 năm 2023, tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:
Đặng Thanh B, sinh ngày 01/6/1992 tại Hà Tĩnh; nơi cư trú: thôn Phương Giai, xã K, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Bá T, sinh năm 1966 và bà Chu Thị N, sinh năm 1972; vợ Đường Thị Mỹ D, sinh năm 1997.
Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân:
- Tháng 7/2008, bị Công an huyện A, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo, về hành vi: “Trộm cắp tài sản”.
- Tháng 8/2008, bị Công an xã K, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 300.000 đồng, về hành vi: “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 06/01/2009, bị Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, về tội: “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 29/6/2009, bị Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 18 tháng tù, về tội:“Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với hình phạt của Bản án ngày 06/01/2009 buộc phải chấp hành 33 tháng tù.
- Ngày 23/10/2020, bị UBND xã K, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời hạn 03 tháng, về hành vi: “Sử dụng trái phép chất, ma túy”.
- Ngày 25/4/2012, bị Tòa án nhân dân Quận Đ, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 19/01/2015, bị Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 26 tháng tù, về tội: “Chống người thi hành công vụ”, ra trại ngày 16/02/2017, hiện đã xóa án tích đối với các bản án nêu trên.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/11/2022 đến ngày 18/01/2023 thì được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh” cho đến nay; có mặt.
- Người làm chứng:
+ Bà Đường Thị Mỹ D (vợ bị cáo), sinh năm 1997; địa chỉ: thôn P, xã K, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.
+ Ông Nguyễn Đình T, sinh năm 1997; địa chỉ: thôn P, xã K, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 20/11/2022, bị cáo B đến nhà Nguyễn Đình T thuê chở B và Đường Thị Mỹ D đi Cửa khẩu Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị để chơi, hai bên thống nhất giá đi về trong ngày là 3.000.000 đồng. Sau đó, T điều khiển xe ô tô BKS 38A- 441.71 đến đón B và D đi Quảng Trị. Khoảng 11 giờ cùng ngày, B, D và T vào uống nước tại một quán cà phê nằm trên đường Quốc lộ 9 thuộc địa phận huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Tại đây, B gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi ngồi ở bàn bên cạnh nên đến bắt chuyện hỏi thăm một số địa chỉ vui chơi trên địa bàn. Qua nói chuyện, người này biết B sẽ quay về Kỳ Anh, Hà Tĩnh trong ngày nên đặt vấn đề thuê B vận chuyển 04 thùng pháo loại 36 ống (80 hộp pháo) và 05 bao pháo bi ra Kỳ Anh, tiền công vận chuyển 6.000.000 đồng, B đồng ý. Người đàn ông này hướng dẫn B đi đến Km 24 Quốc lộ 9 (thuộc thôn Cam Phú, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ) sẽ có người đợi sẵn để giao hàng. Sau đó, người đàn ông này lấy thông tin về biển số xe và số điện thoại của B rồi rời đi. Trao đổi xong, B trở lại bàn yêu cầu T điều khiển xe quay về Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Khi T điều khiển xe ô tô BKS 38A-441.XX đến gần khu vực thôn Cam Phú thì B bảo T cho xe đi chậm lại. Thấy có một người đàn ông mặc áo mưa màu đen, đầu đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang đang đứng phía bên trái đường vẫy tay ra hiệu thì B yêu cầu T điều khiển xe quay đầu, dừng xe cạnh vị trí người đàn ông này. Khi dừng xe, B nói với D đến quán tạp hóa ở phía trước để mua nước uống, T đi cùng D để mua thuốc lá. Sau khi D và T đi, B đến gặp người đàn ông thì nhìn thấy các kiện hàng được bọc trong bao gai và bao ni lông màu đen để sát lề đường. Hai bên trao đổi và xác nhận là người giao nhận hàng nên cùng bốc các kiện hàng vào cốp xe và sàn xe. Sau khi bốc xong, B gọi D và T quay lại xe để tiếp tục di chuyển. Khi lên xe, T ngồi ở ghế lái để điều khiển phương tiện, D ngồi ở ghế phụ (bên cạnh T) còn B ngồi ở hàng ghế thứ 2 phía sau. Lúc này, T thấy kiện hàng để ở sàn xe nên hỏi hàng gì thì B trả lời: “hàng của anh”, nghe vậy T không hỏi gì thêm và điều khiển xe để đi về Hà Tĩnh. Khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày, khi xe ô tô BKS 38A-441.XX đến Km 17, Quốc lộ 9 thuộc địa phận thôn Mỹ Tường, xã Cam Thành thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt giữ cùng tang vật.
Tại Bản kết luận giám định số 1230/KL-KTHS ngày 23/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận:
+ 80 hộp, vỏ ngoài bọc giấy có ký hiệu A8503 (A0398) được niêm phong trong 05 thùng giấy đánh số lần lượt 01, 02, 03, 04, 05 gửi đến giám định là pháo hoa nổ. Khối lượng 108,6kg.
+ Các vật hình cầu nhiều màu sắc, vỏ ngoài mỗi vật có gắn dây đựng trong 05 túi nylon được niêm phong trong thùng giấy đánh số 01 gửi đến giám định là pháo nổ. Khối lượng 2,6kg.
Cáo trạng số 17/CT-VKSQT-P1 ngày 23 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị truy tố Đặng Thanh B, về tội: “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 191 BLHS.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị giữ nguyên Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Đặng Thanh B số tiền từ 320.000.000 đồng đến 350.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng pháo nổ và pháo hoa nổ còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu vàng, màn hình cảm ứng, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Xét lời khai nhận hành vi của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:
Vào lúc 11 giờ ngày 20/11/2022, tại một quán cà phê nằm trên đường Quốc lộ 9 thuộc địa phận huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, bị cáo Đặng Thanh B nhận lời một người đàn ông không quen biết để vận chuyển 04 thùng pháo loại 36 ống và 05 bao pháo bi từ huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị ra huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh với tiền công vận chuyển 6.000.000 đồng.
Thực hiện theo thoả thuận nêu trên, vào lúc 11 giờ 45 phút, tại khu vực thôn Cam Phú, bị cáo B cùng người đàn ông không quen biết đã bốc 04 thùng pháo loại 36 ống và 05 bao pháo vào cốp xe và sàn ô tô BKS 38A-441.XX. Khoảng 12 giờ 10 phút cùng ngày, khi xe ô tô BKS 38A-441.XX đến Km 17, Quốc lộ 9 thuộc địa phận thôn Mỹ Tường thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt giữ cùng tang vật.
Kết luận giám định số 1230/KL-KTHS ngày 23/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận:
+ 80 hộp là pháo hoa nổ. Khối lượng 108,6kg.
+ Các vật hình cầu nhiều màu sắc, vỏ ngoài mỗi vật có gắn dây đựng trong 05 túi nylon được niêm phong trong thùng giấy đánh số 01 gửi đến giám định là pháo nổ. Khối lượng 2,6kg.
Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị truy tố Đặng Thanh B về tội: “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Đối với những đối tượng có liên quan:
Đối với người đàn ông đã thuê B vận chuyển pháo và người đàn ông đã cùng B bốc pháo lên xe. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ cụ thể của những người này nên khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với ông Nguyễn Đình T và bà Đường Thị Mỹ D không được trao đổi, bàn bạc và không biết bị cáo B vận chuyển pháo nên không xem xét xử lý.
[4]. Hành vi vận chuyển hàng cấm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước đối với những loại hàng hoá mà pháp luật cấm kinh doanh, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi vận chuyển hàng cấm là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu với 03 lần bị xử phạt vi phạm hành chính, 03 lần bị xử phạt tù nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo Đặng Thanh B mức án nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng tình tiết “Thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
HĐXX thấy rằng, hành vi của bị cáo có tính chất đơn giản, do hám lợi mà bột phát thực hiện; vợ bị cáo đang mang thai nên bị cáo mong muốn được xử phạt tiền để có thời gian chăm vợ; bị cáo đủ điều kiện để thi hành hình phạt tiền là hình phạt chính đồng thời thực hiện tinh thần đổi mới của Bộ luật hình sự được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 về tăng cường xử phạt tiền là hình phạt chính đối với tội phạm rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Vì vậy, cần chấp nhận đề nghị của đại diện của VKSND tỉnh Quảng Trị áp dụng hình phạt tiền để xử phạt bị cáo Đặng Thanh B là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và hoàn cảnh bị cáo.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Do hình phạt chính là hình phat tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[7]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng pháo nổ và pháo hoa nổ còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu vàng, màn hình cảm ứng, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy [8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Đặng Thanh B, phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”.
2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Đặng Thanh B số tiền 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng).
3. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS:
* Tịch thu tiêu hủy:
- Các bao gai màu cam, màu trắng; bao ni lông màu đen, màu trong suốt và áo mưa tiện lợi nhiều màu sắc (được mở niêm phong từ thùng cát tông bên ngoài có dòng chữ WHITE HOSE FILTER đánh ký hiệu số 06).
- 05 (năm) thùng giấy niêm phong ký hiệu T01, T02, T03, T04, T05 bên ngoài có chữ ký của những người tham gia niêm phong và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị. Theo kết luận giám định số 1230/KL-KTHS ngày 23/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị bên trong đựng 75 (bảy mươi lăm) hộp pháo hoa nổ, vỏ ngoài bọc giấy có ký hiệu A8503 (A0398) có khối lượng 101,8kg;
- Thùng giấy niêm phong ký hiệu T06 bên ngoài có chữ ký của những người tham gia niêm phong và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị. Theo kết luận giám định số 1230/KL-KTHS ngày 23/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị bên trong đựng các quả pháo nổ, khối lượng 2,574kg.
* Trả lại cho bị cáo:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max, số máy MT6L2LL/A, số seri G6TYV7CNKPHJ, bên trong gắn thẻ sim có số seri 8984048000319786xxx, pin của máy bị phình làm cho màn hình và phần vỏ máy bị tách rời, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy.
(Vật chứng có tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/4/2023).
4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đặng Thanh B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 24/2023/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 24/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về