TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 20/04/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 20 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 và Thông báo số 02/TB- TA ngày 31 tháng 3 năm 2020 về việc thay đổi thời gian xét xử, đối với bị cáo:
Nguyễn Duy K, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1971 tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nơi cư trú: Thôn 1 M, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Khắc C và bà Trần Thị M (đều đã chết); có vợ là Lại Thị S, sinh năm 1972 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Không. Hiện bị cáo đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Lại Thị S, sinh năm 1972; nơi cư trú: Thôn 1 M, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt có lý do
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 10 giờ 20 phút ngày 26/11/2019, tổ công tác Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang tiến hành tuần tra kiểm soát trên đoạn đường Quốc lộ 2 thuộc thôn P, xã Q, huyện B, tỉnh Hà Giang, quá trình kiểm soát phát hiện đối tượng Nguyễn Duy K, sinh năm 1971, trú tại thôn 1 M, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22B1-xxxxx, bên phía sau yên xe có chở một túi xách màu đỏ đen có dây quai và khóa kéo, bên trong túi có 16 khối hình hộp, bên trong mỗi khối hình hộp có 36 ống hình trụ, bên ngoài bọc giấy nhiều màu có ghi chữ nước ngoài và 23 vật hình bóng đèn điện tròn, bên ngoài bọc giấy màu nâu, một đầu có gắn dây ngòi màu xanh (nghi là pháo). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong toàn bộ vật chứng và đưa Nguyễn Duy K về Công an huyện Bắc Quang để điều tra làm rõ.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Duy K khai nhận: Ngày 22/11/2019 K có đi từ nhà ở thôn 1 M, xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang đến làm thuê tại khu vực phía trong đường đi thủy điện Bát Đại Sơn thuộc địa bàn xã N, huyện Y, tỉnh Hà Giang, đến ngày 26/11/2019 do gia đình có việc nên khoảng 04 giờ sáng, K một mình điểu khiển xe mô tô biển kiểm soát 22B1-xxxxx nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, màu đen trắng, đi từ khu vực xã N, huyện Y, tỉnh Hà Giang về nhà. Trên đường về khi đi đến đoạn đường thuộc thôn P, xã N, huyện Y, tỉnh Hà Giang, K có gặp một người phụ nữ dân tộc tầm 30 tuổi (K không biết tên, tuổi địa chỉ người phụ nữ) đi bộ cùng chiều có vác một bao hàng. K hỏi người phụ nữ vác đồ gì, người phụ nữ trả lời “Pháo” lúc đó K nảy sinh ý định mua pháo về đốt chơi tết nguyên đán 2020 nên hỏi mua và người phụ nữ đồng ý bán với giá 100.000 đồng/01 hộp loại giàn 36 ống và 10.000 đồng/01 quả pháo cù. K mua 16 hộp pháo loại giàn 36 ống và 23 quả pháo cù với tổng giá tiền là 1.830.000đ (Một triệu tám trăm ba mươi nghìn đồng). Giao dịch trả tiền xong, người phụ nữ đi bộ về hướng ngược lại còn K cho số pháo mua được vào túi xách màu đỏ đen và buộc túi đựng pháo vào phía sau yên xe máy bằng dây cao su màu đen và đi về nhà. Khi đi đến đoạn đường thuộc địa phận thôn P, xã Q, huyện B, tỉnh Hà Giang thì bị tổ công tác Công an huyện Bắc Quang bắt quả tang.
Ngày 26/11/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh và trích mẫu vật gửi giám định. Kết quả cân tịnh: Tổng khối lượng của 16 (mười sáu) khối hình hộp bên trong mỗi khối có 36 vật hình trụ, bên ngoài bọc giấy nhiều màu có ghi chữ nước ngoài và 23 vật hình bóng đèn điện tròn, bên ngoài bọc giấy màu nâu, một đầu có gắn dây ngòi màu xanh là 19,4 kg (mười chín phẩy bốn kilogam).
Ngày 27/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 226/QĐ đối với số pháo đã thu giữ của Nguyễn Duy K.
Tại kết luận giám định số: 388/KL-PC09 ngày 03/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang đã kết luận: Mẫu vật gửi giám định ký hiệu A1, A2 là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ).
Như vậy, tổng số pháo Nguyễn Duy K vận chuyển trái phép có khối lượng là 19,4 kg (mười chín phẩy bốn kilogam).
Với hành vi trên, tại Cáo trạng số: 09/CT-VKS ngày 24/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố Nguyễn Duy K về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Duy K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.
Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Nguyễn Duy K về tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Về điều luật và hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 khoản 2 khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm đến 04 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.
Tại phần tranh luận bị cáo nhất trí với tội danh và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đã đề nghị trong bản luận tội.
Bị cáo lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội làm người công dân tốt, có ích cho xã hội và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.
Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy họ đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử, căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Lời khai nhận tội của Nguyễn Duy K tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, truy tố đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 26/11/2019; Biên bản mở niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, tiến hành cân tịnh và trích mẫu vật niêm phong gửi giám định; Bản ảnh cân tịnh vật chứng; Quyết định trưng cầu giám định ngày 27/11/2019; Kết luận giám định số: 388/KL-PC09 ngày 03/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang; Biên bản xác định hiện trường và sơ đồ hiện trường ngày 15/01/2020, bản ảnh xác định hiện trường, cùng tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Ngày 26/11/2019 Nguyễn Duy K có hành vi “Vận chuyển hàng cấm” có khối lượng là 19,4 Kg (mười chín phẩy bốn Kilogam) có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ). Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự, như Viện kiểm sát huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.
Tại Điều 191 của Bộ luật hình sự quy định:
1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a)...................... b)......................
c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thuộc tội phạm ít nghiêm trọng, đã xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước trong quản lý một số loại hàng hóa cấm vận chuyển, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi vận chuyển loại hàng hóa mà nhà nước cấm là trái pháp luật nhưng vì mục đích cá nhân bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, cần xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự với mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra nhằm giáo dục đối với bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội:
Trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về nhân thân, bị cáo có nhân thân tốt. Ngoài ra, bản thân bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú và có nơi cư trú rõ ràng. Trên cơ sở xem xét tính chất mức độ phạm tội và các điều kiện quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử thấy rằng mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng các quy định tại khoản 1, 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách, như vậy cũng có tác dụng giáo dục đối với bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tuy nhiên trong vụ án này xét thấy bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Đối với người phụ nữ bán pháo cho bị cáo, quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã tiến hành xác minh nhưng không điều tra làm rõ được, nên không có căn cứ để xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng: Trên cơ sở những vật chứng cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Quang đã thu giữ trong vụ án, căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 của Bộ luật Hình sự và căn cứ Điều 8 Nghị định số 26/2012/NĐ- CP ngày 05/4/2012 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền và kinh phí phục vụ việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, cần xử lý như sau:
- Đối với vật chứng sau khi giám định còn lại là 14 (mười bốn) khối hình hộp, vỏ bọc giấy màu, có ghi nhiêu chữ nước ngoài, bên trong khối hộp có 36 vật hình trụ và 18 (mười tám) vật hình bóng đèn điện tròn, vỏ bọc giấy màu nâu, một đầu có gắn dây ngòi màu xanh. Được niêm phong trong 01 hộp bìa cát tông, ký hiệu M1. Tổng khối lượng 14 (mười bốn) khối hình hộp và 18 (mười tám) vật hình bóng đèn điện tròn là 16,8 kg (mười sáu phảy tám kilogram), hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đang gửi tại Kho vật chứng thuộc Cơ quan THAHS và HTTP Công an tỉnh Hà Giang (Theo phiếu nhập kho vật chứng ngày 20/01/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang, bút lục 65). Hội đồng xét xử, xét thấy đây là vật chứng trực tiếp liên quan đến tội phạm là vật thuộc loại nhà nước cấm vận chuyển, tàng trữ. Do đó, giao cho Cơ quan Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xử lý tiêu hủy theo thẩm quyền.
- Đối với vật chứng là 01 (một) dây cao su màu đen, dài 2,10 m dây cũ đã qua sử dụng; 01 (một) túi xách màu đỏ đen, có dây quai và khóa kéo, túi đã qua sử dụng. Hội đồng xét xử xác định đây là những vật chứng không có giá trị và không sử dụng được, cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với vật chứng là 01 (một) xe máy nhãn hiệu YAMAHA, số loại SIRIUS, biển kiểm soát 22B1-xxxxx, màu đen trắng, xe cũ đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, mặt trước màu trắng, mặt sau màu vàng đồng, điện thoại cũ đã qua sử dụng, có gắn 01 (một) sim điện thoại có chữ VIETTEL; 01 (một) mũ bảo hiểm màu trắng đen, có dây cài, phía trước có gắn kính, mũ cũ đã qua sử dụng, quá trình điều tra xét thấy không liên quan đến vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã ra quyết định xử lý vật chứng và lập biên bản trả lại cho chủ sở hữu ngày 20/01/2020 (bút lục số 66, 67) theo đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 khoản 2 khoản 5 Điều 65; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; căn cứ Điều 8 Nghị định số 26/2012/NĐ-CP ngày 05/4/2012 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền và kinh phí phục vụ việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; Điều 3 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy K phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Duy K cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện H, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về xử lý vật chứng:
* Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) dây cao su màu đen, dài 2,10 m dây cũ đã qua sử dụng; 01 (một) túi xách màu đỏ đen, có dây quai và khóa kéo, túi đã qua sử dụng.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện Bắc Quang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang ngày 26/02/2020).
* Giao cho Cơ quan Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xử lý tiêu hủy theo thẩm quyền: 14 (mười bốn) khối hình hộp, vỏ bọc giấy màu, có ghi nhiêu chữ nước ngoài, bên trong khối hộp có 36 vật hình trụ; 18 (mười tám) vật hình bóng đèn điện tròn, vỏ bọc giấy màu nâu, một đầu có gắn dây ngòi màu xanh. Được niêm phong trong 01 hộp bìa cát tông, ký hiệu M1. Tổng khối lượng 14 (mười bốn) khối hình hộp và 18 (mười tám) vật hình bóng đèn điện tròn là 16,8kg (mười sáu phẩy tám kilogram).
(Tình trạng vật chứng theo phiếu nhập kho vật chứng ngày 20/01/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang) 4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy K phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án sao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 08/2020/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 08/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về