TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BĐ, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 19/01/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 19 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BĐ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2022/HSST ngày 13 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn T, sinh năm 1993 tại Đồng Nai; HKTT: Thôn 5, xã TH, huyện BĐ, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị Phước N; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 06/11/2012 bị TAND huyện BĐ xử phạt 40 tháng từ về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Điều 202 Bộ luật hình sự 1999, thuộc trường hợp “được coi là không có án tích” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự 2015; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2023 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Anh Huỳnh Nhật H, sinh năm 2004 – Có mặt
Địa chỉ: Thôn 5, xã TH, huyện BĐ, tỉnh B (Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện BĐ)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có quen biết từ trước với một người thanh niên tên R nhà ở thôn 5, xã TH, huyện BĐ nên khoảng 03 giờ 15 phút ngày 04/01/2023, R gọi điện thoại cho Trần Văn T để thuê T vận chuyển pháo về khu vực thủy điện Cần Đơn thuộc thôn 6, xã TH, huyện BĐ và kêu T chạy xe vào Đội 4 thuộc thôn 4, xã TH, huyện BĐ sẽ có người dẫn vào địa điểm lấy pháo thì T đồng ý. Sau đó T điều khiển xe mô tô, hiệu Yama ha loại Exciter, màu đen, biển kiểm soát: 93G1-xxxxx từ nhà ở xã Thanh Hòa, huyện BĐ vào Đội 4 gặp Huỳnh Nhật H sn: 2004, HKTT: 109, V, Phường tân Thới Hòa, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh để H dẫn T vào khu vực lô cao su thuộc ấp Phước Tiến, xã Hưng Phước, huyện BĐ lấy pháo. Tại đây T thấy 03 bao tải đựng pháo và lấy 01 bao tải chất lên xe mô tô, còn H chất 02 bao pháo vận chuyển chạy trước,T chạy sau H, còn R điều khiển xe mô tô chạy trước T và H để canh đường ( theo lời khai của T ). Khi T điều khiển xe mô tô chở pháo đến khu vực bãi đất trống gần bờ hồ thủy điện Cần Đơn thuộc thôn 6, xã TH, huyện BĐ thì bị lực lượng Công an huyện BĐ phát hiện bắt giữ được H còn T điều khiển xe mô tô tăng ga bỏ chạy được khoảng 500 mét thì bỏ lại xe nhảy xuống hồ thủy điện Cần Đơn để bỏ trốn nhưng bị lực lượng Công an bắt giữ.
Tang vật thu giữ gồm: 01 bao tải màu xanh có kích thước 67cm x 105cm bên trong có chứa 16 (mười sáu) khối hình hộp chữ nhật (nghi là pháo), loại 49, có kích thước 17cm x 17cm x 10cm, qua kiểm tra có tổng trọng lượng 24,3kg (hai mươi bốn phẩy ba kilogam), 01 xe xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter, màu đen, Biển kiểm soát: 93G1- xxxxx không xác định được số khung, số máy; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh, Model: TA -1203, Imei: 354275389610937 bên trong có gắn thẻ sim 094528xxxx.
Công an huyện BĐ đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong và niêm phong vật chứng để trưng cầu giám định.
Tại bản kết luận giám định số: 28/KL- KTHS ngày 05/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: 16 khối hình hộp có cùng kích thước 17cm x 17cm x 10cm bên ngoài dán giấy nhiều màu sắc in chữ nước ngoài, bên trong có 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,4cm, gửi giám định đều là pháo hoa nổ (pháo nổ). Khi đốt bay lên cao nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 24,30kg.
Quá trình điều tra Trần Văn T khai nhận vận sử dụng xe mô tô của mình vận chuyển số pháo trên cho đối tượng có tên là R ( không rõ nhân thân) để lấy tiền công, nhưng R chưa đưa tiền công cho T thì bị bắt quả tang.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như trong nội dung Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 6 – 9 tháng tù.
- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Quyết định truy tố của đại diện VKSND huyện BĐ đã công bố, không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Đại diện VKSND huyện BĐ và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện BĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
Đối chiếu lời khai của bị cáo, của người làm chứng là hoàn toàn phù hợp với nhau về thời gian, không gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án cũng như vật chứng của vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 03 giờ 15 phút, ngày 04/01/2023, bị cáo Trần Văn T đã có hành vi vận chuyển 24,3kg pháo nổ bằng xe mô-tô. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ Luật hình sự 2015. Do vậy, nội dung Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKS-BĐ ngày 13 tháng 01 năm 2023 truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý của Nhà nước đối với pháo nổ. Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu (lần phạm tội năm 2011, xét xử năm 2012 là tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý, tại thời điểm phạm tội bị cáo được 17 tuổi 03 tháng 27 ngày nên thuộc trường hợp “được coi là không có án tích” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 107 Bộ luât hình sự 2015, do vậy lần phạm tội này được xem là phạm tội lần đầu) và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được áp dụng đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng:
- Đối với 18,2kg pháo nổ còn lại sau giám định và 01 bao tải màu xanh có kích thước 67cm x 105cm là hàng cấm và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter, màu đen, gắn biển kiểm soát: 93G1- xxxxx, qua kiểm tra xe đã bị mài mòn số khung số máy, T khai nhận chiếc xe này là của T mua của người khác không làm giấy tờ chiếc xe này T sử dụng để vận chuyển hàng cấm nên cần tịch thu sung Ngân sách nhà nước.
- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh, Model: TA - 1203, Imei: 354275389610937 bên trong có gắn thẻ sim 094528xxxx, khi bỏ chạy T đã làm rơi xuống nước và bị hư hỏng, đây là công cụ phương tiện do T sử dụng để liên lạc vận chuyển pháo, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Các vấn đề khác - Đối tượng tên R là người thuê bị cáo chở pháo, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch , Cơ quan CSĐT tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là có cơ sở.
- Đối với Huỳnh Nhật H khai nhận không đi cùng T để vận chuyển số pháo nơi T lấy ở ấp PT, xã HP mà H đến khu vực nhà hoang ở thôn 5, xã TH, huyện BĐ để lấy và chở 53,6kg cho người có tên là Tý (không rõ nhân thân lai lịch) ở xã ĐK, huyện BGM thì bị bắt quả tang, ngày 12/01/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện BĐ đã khởi tố H về tội Vận chuyển hàng cấm nên không đề cập xử lý trong vụ án này là có cơ sở.
Xét đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ tại phiên tòa đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật, với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”, Áp dụng khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 Xử phạt bị cáo Trần Văn T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tam giữ, tạm giam (ngày 04/01/2023).
[2] Vật chứng:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
- Tịch thu tiêu hủy 18,2kg pháo nổ còn lại sau giám định và 01 bao tải màu xanh có kích thước 67cm x 105cm; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh, Model: TA - 1203, Imei: 354275389610937 bên trong có gắn thẻ sim thuê bao 094528xxxx.
- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter, màu đen, gắn biển kiểm soát: 93G1-xxxxx Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/01/2023 giữa cơ quan CSĐT công an huyện BĐ và Chi cục THADS huyện BĐ và Ủy nhiệm chi số 05/ĐP-TKTG ngày 17/3/2022 của Công an huyện BĐ
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 05/2023/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 05/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về