TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 57/2023/HS-ST NGÀY 16/05/2023 VỀ TỘI TRỒNG CÂY CẦN SA
Ngày 16 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Đ. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2023, đối với:
- Bị cáo: Trần Trịnh Quảng N; sinh ngày 13 tháng 8 năm 1996 tại Đ; nơi đăng ký thường trú và cư trú: Thôn 8, xã G, huyện D, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Vũ L và bà Trịnh Thị Thanh T (đã chết); tiền án: Không;
Tiền sự: Quyết định xử phạt hành chính số: 29/QĐ-XPHC ngày 24/7/2019 của Công an huyện D xử phạt tiền 4.250.000 đồng về hành vi “Trồng trái phép cây cần sa” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Quyết định xử phạt hành chính số: 23A/QĐ-XPHC ngày 20/10/2022 của Công an huyện D xử phạt tiền 7.500.000 đồng về hành vi “Trồng trái phép cây cần sa”.
Nhân thân: Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính số: 51/QĐ-TA ngày 04/02/2020 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng; chấp hành xong quyết định ngày 07/4/2021.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2023, chuyển tạm giam từ ngày 14/02/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện D. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ ngày 07/02/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D bắt quả tang Trần Trịnh Quảng N về hành vi trồng trái phép 03 cây cần sa tại nhà ở số 144, Thôn 08, xã G, huyện D, tỉnh Đ. Thu giữ ba cây thực vật tươi có khối lượng 20,5222g và niêm phong gửi đi giám định.
Tại kết luận giám định số: 136/KL-KTHS, ngày 13/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: “Mẫu ba cây thực vật tươi được niêm phong gửi đi giám định là ma túy, có khối lượng 20,5222g, loại Cần sa. Cần sa là chất ma túy nằm trong danh mục ID, STT 01, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/08/2022 của Chính phủ”.
Quá trình điều tra Trần Trịnh Quảng N khai nhận như sau: N nghiện ma túy từ năm 2014. Vào khoảng tháng 11/2022 N lên sử dụng mạng Facebook đặt mua 200.000 đồng hạt giống cây cần sa. Sau đó N được xe khách tuyến Bắc Nam chuyển đến 01 gói giấy bên trong có 08 hạt giống cây cần sa. N đem tất cả số hạt giống trồng trong hai chậu đất phía sau nhà nhưng chỉ mọc lên 03 cây. Ngày 07/02/2023, N bị Công an huyện D kiểm tra bắt quả tang về hành vi trồng trái phép 03 cây cần sa, tiến hành xét nghiệm đối với N cho kết quả dương tính với ma túy.
Xác minh cho thấy tính đến ngày 07/02/2023 bị cáo Trần Trịnh Quảng N đã 02 lần bị xử phạt hành chính và chưa chấp hành quyết định. Cụ thể: Tại Quyết định xử phạt hành chính số: 29/QĐ-XPHC, ngày 24/7/2019 của Công an huyện D xử phạt 4.250.000 đồng về hành vi “Trồng trái phép cây cần sa” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Quyết định xử phạt hành chính số:
23A/QĐ-XPHC, ngày 20/10/2022 của Công an huyện D xử phạt 7.500.000 đồng về hành vi “Trồng trái phép cây cần sa”.
Tại Cáo trạng số: 50/CTr-VKS ngày 17 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Đ đã truy tố Trần Trịnh Quảng N về tội “Trồng cây cần sa” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 247 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Quá trình thẩm vấn tại phiên tòa, bị cáo Trần Trịnh Quảng N thừa nhận bản thân chưa chấp hành quyết định xử phạt hành chính về hành vi trồng cây cần sa lại tiếp tục thực hiện hành vi trồng cây cần sa, thành khẩn khai báo và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trồng cây cần sa”; áp dụng điểm b khoản 1 Điều 247, Điều 38, Điều 50, điểm i và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù; tịch thu tiêu hủy bao gói vật chứng; buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện D, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về quyết định, hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ và phiếu kết quả xét nghiệm chất ma túy ngày 07 tháng 02 năm 2023; Quyết định trưng cầu giám định số: 21/QĐ-CSMT ngày 08 tháng 02 năm 2023 của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện D; Kết luận giám định số:
136/KL-KTHS ngày 13 tháng 02 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ; Quyết định xử phạt hành chính số: 29/QĐ-XPHC ngày 24/7/2019 của Công an huyện D, xử phạt Trần Trịnh Quảng N về hành vi “Trồng trái phép cây cần sa” và “Sử dụng trái phép chất ma túy” với số tiền 4.250.000 đồng. Quyết định xử phạt hành chính số: 23A/QĐ-XPHC ngày 20/10/2022 của Công an huyện D, xử phạt Trần Trịnh Quảng N về hành vi “Trồng trái phép cây cần sa” với số tiền 7.500.000 đồng; biên lai thu tiền phạt ngày 20/3/2023. Qua đó có cơ sở xác định: Bị cáo Trần Trịnh Quảng N đã 02 lần bị xử phạt hành chính về hành vi “Trồng cây cần sa”, đến thời điểm ngày 07 tháng 02 năm 2023 bị cáo chưa chấp hành các quyết định xử phạt hành chính lại tiếp tục bị bắt quả tang về hành vi trồng 03 cây cần sa tại căn nhà số 144, Thôn 08, xã G, huyện D, tỉnh Đ. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội "Trồng cây cần sa" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 247 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Xét tình hình tội phạm về ma túy tại địa phương hiện nay có chiều hướng gia tăng, bị cáo nghiện ma túy đã bị xử lý nhiều lần nhưng tiếp tục cố ý vi phạm. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống bình thường một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và cảnh tỉnh các đối tượng khác, đồng thời tạo cho bị cáo có môi trường thuận lợi để cai nghiên ma túy. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình tố tụng bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để áp dụng điểm i và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật.
[4] Đối với người bán hạt giống cây cần sa cho bị cáo không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở xử lý. Đối với 03 cây cần sa đã được sử dụng hết trong quá trình giám định nên không đề cập giải quyết. Đối với bao gói vật chứng cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án. Cần buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Trịnh Quảng N phạm tội "Trồng cây cần sa".
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 247, Điều 38, Điều 50, điểm i và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Trịnh Quảng N 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07 tháng 02 năm 2023.
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án 2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy 01 thùng giấy được niêm phong ghi số 136/2023, nội dung vụ Trần Trịnh Quảng N – SN 1996. QĐTC: 21/QĐ-ĐCSMT; 08/02/2023 có chữ ký của Ngô H, Nguyễn Văn C, Phạm Thị D và dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đ (theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 18/4/2023 giữa Công an huyện D và Chi cục Thi hành án dân sự huyện D)
3. Buộc bị cáo Trần Trịnh Quảng N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm.
Bản án 57/2023/HS-ST về tội trồng cây cần sa
Số hiệu: | 57/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về