Bản án về tội trốn thuế số 51/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 51/2024/HS-ST NGÀY 17/06/2024 VỀ TỘI TRỐN THUẾ

Ngày 17 tháng 6 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 120/2023/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2024/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 5 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2024/HSST-QĐ ngày 20 tháng 5 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Hoàng Thị Phong T, sinh năm: 1952, tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Nơi cư trú: T15.06 Chung cư T, T, T, thành phố Hồ Chí Minh. Nghề nghiệp: Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty TNHH L3. Giới tính: Nữ. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12; con ông Hoàng Trọng T1 và bà Nguyễn Thị T2; có chồng: Dương Tấn N (đã ly hôn); có 02 con sinh năm: 1976 và năm 1994. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thị Kim L, sinh năm: 1977, tại tỉnh Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn Đ, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Nghề nghiệp: Kế toán trưởng Công ty TNHH L3. Giới tính: Nữ. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn:

12/12; con ông: Nguyễn Đ và bà Phạm Thị T3; có chồng: Huỳnh Hữu L1; có 02 con sinh năm: 2009 và năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác: Bị đơn dân sự: Công ty TNHH L3. Địa chỉ: LKB C Khu A, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

1 Đại diện: Ông Abdullah C, sinh năm: 1967. Quốc tịch: T. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Cục thuế tỉnh K, địa chỉ: Số A đường A, khu đô thị V, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

Đại diện: Ông Nguyễn Thanh H, chức vụ: Phó trưởng Phòng kiểm tra nội bộ thuộc Cục thuế tỉnh K. Có mặt.

2. Ông Murat A, sinh năm: 1979. Quốc tịch: T. Nơi cư trú: A Nafiz Gurman Mah G Merler G L, T. Nơi tạm trú: LKB3 A, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

Người giám định:

1. Ông Nguyễn Văn T4-Chức vụ: Giám định viên tư pháp trong lĩnh vực thuế thuộc Cục thuế tỉnh K. Vắng mặt.

2. Ông Nguyễn T5-Chức vụ: Giám định viên tư pháp trong lĩnh vực thuế thuộc Cục thuế tỉnh K. Có mặt.

3. Ông Phạm Văn K-Chức vụ: Đội trưởng Đội kiểm tra Thuế số 1-Chi cục thuế thành phố N, Cục thuế tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Bà Phạm Khánh T6, sinh năm: 1990, nơi cư trú: A B, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Hồng L2, sinh năm: 1993, nơi cư trú: Thôn H, xã S, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Công ty TNHH L3 có trụ sở tại địa chỉ: LKB C khu A, V, N, Khánh Hòa, đã được Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh K cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mã số 0312618916 vào ngày 26/8/2015, mã số thuế 4201656367, ngành nghề đăng ký kinh doanh của công ty là dịch vụ đại lý lữ hành, dịch vụ hỗ trợ liên quan đến quảng bá và tổ chức, điều hành các chuyến du lịch; Tổng giám đốc là ông Murat A1 (Quốc tịch T); Chủ tịch hội đồng thành viên là Hoàng Thị Phong T; Kế toán trưởng là Nguyễn Thị Kim L; Kế toán viên là Vũ Ái T7 và Nguyễn Thị Hồng L2; Thủ quỹ là Phạm Khánh T6.

Năm 2015, Công ty TNHH L3 có doanh thu từ hoạt động kinh doanh là 7.000.000.000 đồng; năm 2016 có doanh thu từ hoạt động kinh doanh là 10.700.000.000 đồng. Tuy nhiên, để trốn tránh việc đóng thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2015 và 2016, Murat A đã chỉ đạo Nguyễn Thị Kim L, Hoàng Thị Phong T sử dụng chứng từ không hợp pháp để kê khai trốn thuế cụ thể:

Ngày 03/9/2015, Hoàng Thị Phong T và Murat A đã ký khống hợp đồng mượn tiền số 01/HĐMT/2015 với nội dung Thu cho Công ty TNHH L3, đại diện theo pháp luật là Murat A mượn số tiền 7.000.000.000 đồng và được chia làm 03 đợt nhận tiền: Ngày 03/9/2015 Hoàng Thị Phong T, Nguyễn Thị Kim L, M, Vũ Ái T7, Phạm Khánh T6 đã lập khống phiếu thu tiền do T nộp với số tiền 3.000.000.000 đồng. Ngày 03/11/2015 tiếp tục lập khống phiếu thu tiền do T nộp với số tiền 3.000.000.000 đồng và ngày 03/12/2015 lập khống tiếp phiếu thu tiền do T nộp với số tiền 1.000.000.000 đồng.

Số tiền trốn thuế giá trị gia tăng năm 2015 là 636.363.636 đồng, số tiền trốn thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2015 là 1.400.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền trốn thuế năm 2015 là 2.036.363.636 đồng.

Ngày 02/01/2016, Hoàng Thị Phong T và Murat A đã ký khống hợp đồng mượn tiền số 01/HĐMT/2016 với nội dung T cho Công ty TNHH L3 đại diện theo pháp luật là Murat A mượn số tiền 15.000.000.000 đồng và được chia làm 03 đợt nhận tiền: Ngày 04/01/2016, Hoàng Thị Phong T, Nguyễn Thị Kim L, Murat A, Phạm Khánh T6 lập khống phiếu thu tiền do T nộp với số tiền 4.200.000.000 đồng. Ngày 08/11/2016 Lập khống phiếu thu tiền do T nộp với số tiền 3.500.000.000 đồng và ngày 01/12/2016 tiếp tục lập khống phiếu thu tiền do T nộp với số tiền 7.300.000.000 đồng. Ngày 01/12/2016, Hoàng thị Phong T8, Nguyễn Thị Kim L, Murat A, Phạm Khánh T6 đã lập khống phiếu chi tiền cho T8 với số tiền 4.300.000.000 đồng.

Số tiền trốn thuế giá trị gia tăng năm 2016 là 972.727.272 đồng, số tiền trốn thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2016 là 640.605.851 đồng. Tổng số tiền trốn thuế năm 2016 là 1.613.333.123 đồng.

Tổng số tiền trốn thuế của Công ty TNHH L3 trong hai năm 2015 và 2016 là 3.649.696.759 đồng.

Nguyễn Thị Kim L đã trực tiếp soạn thảo 02 Hợp đồng mượn tiền cho Hoàng Thị Phong T (đại diện bên cho mượn) và Murat A (đại diện bên mượn là Công ty TNHH L3) vào ngày 03/9/2015 và ngày 02/01/2016. Sau đó L chỉ đạo cho thủ quỹ và kế toán hợp thức hóa bằng 06 phiếu thu và 01 phiếu chi để che giấu doanh thu của Công ty với tổng số tiền 17.700.000.000 đồng và đưa vào hạch toán trên các tài khoản 111, tài khoản 337, tài khoản 911 nhằm mục đích trốn không phải nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp với tổng số tiền là 3.649.696.759 đồng.

Theo lời khai của Hoàng Thị Phong T và Nguyễn Thị Kim L thì Murat A với chức danh là Tổng giám đốc Công ty TNHH L3 đã chỉ đạo miệng cho T và L thực hiện việc trốn thuế nêu trên và trên Hợp đồng và các phiếu thu, chi đều có chữ ký của Murat A (đã xuất cảnh).

Tại Kết luận giám định về chấp hành pháp luật thuế của Công ty TNHH L3 địa chỉ LKB C khu A, V, N, Khánh Hòa ngày 05/12/2017 của Tổ giám định viên tư pháp về tài chính kế toán xác định: Hành vi trốn thuế của Công ty TNHH L3 trong 02 năm 2015 – 2016 đã gây thiệt hại cho Nhà nước tương ứng với tổng số tiền trốn thuế là 3.649.696.759 đồng (Ba tỷ sáu trăm bốn mươi chín triệu sáu trăm chín mươi sáu nghìn bảy trăm năm mươi chín đồng).

Tại Kết luận giám định số 183/GĐTP/2018 ngày 25/4/2018 của Phòng K1 Công an tỉnh K xác định:

Chữ ký mang tên Hoàng Thị P Thu trong 02 Hợp đồng mượn tiền, 06 phiếu thu và 01 phiếu chi là do Hoàng Thị P T ký ra.

Chữ ký mang tên Nguyễn Thị Kim L trong 06 phiếu thu và 01 phiếu chi là do Nguyễn Thị Kim L ký ra.

Tại Kết luận giám định ngày 19/4/2023 của Giám định viên Phạm Văn K xác định:

Chứng từ chi phí vé máy bay hãng Việt Nam A; chứng từ chi phí vé máy bay hãng V và Turkisk A2 từ bút lục số 01 đến số 543; các chứng từ này ghi tên cá nhân (không có quyết định hoặc văn bản cử người lao động đi công tác và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt của Công ty TNHH L3). Đây không phải là hóa đơn giá trị gia tăng; không có thông tin về tên Công ty TNHH L3 (sau đây gọi là Công ty); không có thông tin về mã số thuế của Công ty theo quy định.

Chứng từ chi phí xăng dầu của Ngân hàng P1 đây là chứng từ Ngân hàng để hạch toán khoản tiền Ngân hàng cho Công ty V1, không phải là hóa đơn giá trị gia tăng mua xăng, dầu theo quy định.

Kết luận:

Về thuế giá trị gia tăng: Các chứng từ Công ty nộp tại Tòa gồm: Vé máy bay, chứng từ chi phí xăng, dầu không phải là hóa đơn giá trị gia tăng; không có thông tin về tên Công ty TNHH L3; không có thông tin về mã số thuế của Công ty theo quy định. Vì vậy các chứng từ Công ty cung cấp tại Tòa án không đáp ứng điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.

Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Các chứng từ Công ty nộp tại Tòa gồm: Vé máy bay, chứng từ chi phí xăng, dầu không phải là hóa đơn giá trị gia tăng; không có thông tin về tên Công ty TNHH L3; không có thông tin về mã số thuế của Công ty theo quy định. Vì vậy các chứng từ Công ty cung cấp tại Tòa án không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế Thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Kết luận: Như vậy, tất cả các chứng từ mà Công ty nộp tại Tòa án theo hồ sơ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N cung cấp cho Giám định viên, không làm thay đổi kết quả giám định ngày 05/12/2017.

Tại bản Cáo trạng số 110/CT-VKSKH-P1 ngày 09 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố bị cáo Hoàng Thị Phong T, Nguyễn Thị Kim L về tội “Trốn thuế” theo quy định tại khoản 3 Điều 200 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Bị cáo Hoàng Thị Phong T, Nguyễn Thị Kim L đã nhận thức được hành vi sai phạm, thật sự ăn năn, hối cải, các bị cáo đồng ý với toàn bộ nội dung Bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định của pháp luật xem xét cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa sau khi phân tích các tình tiết về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đã giữ nguyên Cáo trạng số 110/CT-VKSKH-P1 ngày 09 tháng 10 năm 2023 đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự:

- Áp dụng khoản 3 Điều 200; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 32, 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đối với bị cáo Hoàng Thị Phong T, xử phạt bị cáo Hoàng Thị Phong T số tiền từ 1.700.000.000 đ (Một tỷ bảy trăm triệu đồng) đến 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng) về tội “Trốn thuế”.

- Áp dụng khoản 3 Điều 200; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 32, 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim L, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim L từ 1.500.000.000đ (Một tỷ năm trăm triệu đồng) đến 1.700.000.000đ (Một tỷ bảy trăm triệu đồng) về tội “Trốn thuế”.

- Về trách nhiệm dân sự: Công ty TNHH L3 đã nộp toàn bộ số tiền thuế đã trốn trong các năm 2015 và năm 2016, số tiền còn lại đề nghị tiếp tục tạm giữ để giải quyết trong vụ án khác khi có yêu cầu.

- Bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên nếu có yêu cầu về việc dân sự thì có quyền khởi kiện theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt, xét thấy việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng trên theo quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh K, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[3] Về nội dung:

Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Thị Phong T, Nguyễn Thị Kim L đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Xét thấy lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền, nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở kết luận:

Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2016, Hoàng Thị Phong T, Nguyễn Thị Kim L đã có hành vi sử dụng chứng từ không hợp pháp là 02 Hợp đồng mượn tiền, 06 phiếu thu và 01 phiếu chi để trốn thuế cho Công ty TNHH L3 với tổng số tiền trốn thuế của hai năm 2015 – 2016 là 3.649.696.759 đồng (Ba tỷ sáu trăm bốn mươi chín nghìn sáu trăm bốn mươi chín triệu sáu trăm chín mươi sáu nghìn bảy trăm năm mươi chín) đồng.

Hành vi của các bị cáo thỏa mãn dấu hiệu của tội “Trốn thuế”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 200 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, bản cáo trạng số 110/CT-VKSKH-P1 ngày 09 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố các bị cáo về tội “Trốn thuế” quy định tại theo quy định tại khoản 3 Điều 200 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản quản lý nhà nước trong lĩnh vức thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Hành vi của các bị cáo phải bị xử phạt bằng một mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất mức độ phạm tội mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Thị Phong T, Nguyễn Thị Kim L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động Công ty TNHH L3 chủ động khắc phục toàn bộ số tiền trốn thuế nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Hoàng Thị Phong T có cha, mẹ tham gia kháng chiến chống Mỹ được tặng nhiều huân, huy chương kháng chiến; bản thân bị cáo được tặng nhiều Bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong hoạt động kinh doanh và có nhiều đóng góp trong các hoạt động xã hội, bị cáo là người cao tuổi nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó, không cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo cũng đủ răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

Bị cáo Nguyễn Thị Kim L là kế toán trưởng thực hiện công việc theo chỉ đạo của hội đồng thành viên công ty D, vai trò đồng phạm thứ yếu trong vụ án nên không cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo cũng đủ răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

Bị can Hoàng Thị Phong T, Nguyễn Thị Kim L bị áp dụng tình tiết nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Đối với Murat A (Quốc tịch T), ngày 02/6/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, tỉnh Khánh Hòa có Công văn số 2456/UTTPHS- CATPNT(ĐT-KT) về việc ủy thác tư pháp gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngày 22/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Công văn số 2653/VKSTC- V13 về việc đề nghị Bộ Tư pháp Thỗ Nhĩ Kỳ thực hiện yêu cầu Tương trợ tư pháp về hình sự, nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời. Khi nào có kết quả trả lời Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh K xem xét xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thị Hồng L2, Vũ Ái T7, Phạm Khánh T6 đã thực hiện việc lập các phiếu thu, chi theo sự chỉ đạo của Nguyễn Thị Kim L, nhưng không biết việc Hoàng Thị Phong T và Nguyễn Thị Kim L sử dụng các chứng từ khống vào mục đích trốn thuế nên không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, Công ty TNHH L3 đã nộp tổng số tiền là 4.531.051.158đ (Bốn tỷ năm trăm ba mươi mốt triệu không trăm năm mươi mốt nghìn một trăm năm mươi tám động) vào Cục thuế tỉnh K thông qua Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1 (Theo các Giấy nộp tiền vào Ngân sách nhà nước số: 1840317 ngày 31/8/2017; số 1875648 ngày 08/9/2017; số 1875694 ngày 08/9/2017; số 1973149 ngày 23/9/2017; số 1993566 ngày 26/9/2017; số 1996480 ngày 26/9/2017; số 1997312 ngày 26/9/2017; số 1996367 ngày 26/9/2017; số 1995853 ngày 26/9/2017; số 1997400 ngày 26/9/2017) nhằm mục đích khắc phục hậu quả. Số tiền mà Công ty TNHH L3 được hưởng lợi từ hành vi trốn thuế của các bị cáo là 3.649.696.759đ (Ba tỷ sáu trăm bốn mươi chín nghìn sáu trăm bốn mươi chín triệu sáu trăm chín mươi sáu nghìn bảy trăm năm mươi chín) đồng được trừ vào số tiền mà Công ty TNHH L3 đã nộp nêu trên. Số tiền còn lại sau khi đã khấu trừ (4.531.051.158 đồng - 3.649.696.759 đồng) là 881.354.399đ (T9 trăm tám mươi mốt triệu ba trăm năm mươi bốn nghìn ba trăm chín mươi chín đồng), xét thấy, đây là số tiền không thuộc phạm vi giải quyết trong vụ án này, nên căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Cục thuế tỉnh K có nghĩa vụ trả lại cho Công ty TNHH L3. Trường hợp Công ty TNHH L3 còn phải thực hiện nghĩa vụ tài chính khác đối với Cục thuế tỉnh K sẽ được giải quyết bằng một quan hệ pháp luật khác.

Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo Hoàng Thị Phong T là người cao tuổi, được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định; bị cáo Nguyễn Thị Kim L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 3 Điều 200; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 32, 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Hoàng Thị Phong T.

Phạt tiền bị cáo Hoàng Thị Phong T số tiền 1.700.000.000đ (Một tỷ bảy trăm triệu đồng) về tội “Trốn thuế”.

Căn cứ khoản 3 Điều 200; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 32, 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim L.

Phạt tiền bị cáo Nguyễn Thị Kim L số tiền 1.500.000.000đ (Bằng chữ: Một tỷ năm trăm triệu đồng) về tội “Trốn thuế”.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 8, Điều 47 của Luật Doanh nghiệp năm 2014; Điều 584, 585 Bộ luật Dân sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Chấp nhận việc Công ty TNHH L3 nộp lại 3.649.696.759đ (Ba tỷ sáu trăm bốn mươi chín nghìn sáu trăm bốn mươi chín triệu sáu trăm chín mươi sáu nghìn bảy trăm năm mươi chín đồng) số tiền trốn thuế cho Cục thuế tỉnh K và được trừ vào số tiền 4.531.051.158 (Bốn tỷ năm trăm ba mươi mốt triệu không trăm năm mươi mốt nghìn một trăm năm mươi tám đồng) mà Công ty TNHH L3 đã nộp thông qua Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đ1 vào Cục thuế tỉnh K để khắc phục hậu quả (Theo các Giấy nộp tiền vào Ngân sách nhà nước số: 1840317 ngày 31/8/2017; số 1875648 ngày 08/9/2017; số 1875694 ngày 08/9/2017; số 1973149 ngày 23/9/2017; số 1993566 ngày 26/9/2017; số 1996480 ngày 26/9/2017; số 1997312 ngày 26/9/2017; số 1996367 ngày 26/9/2017; số 1995853 ngày 26/9/2017; số 1997400 ngày 26/9/2017).

Cục thuế tỉnh K phải trả lại cho Công ty TNHH L3 số tiền 881.354.399đ (Bằng chữ: T9 trăm tám mươi mốt triệu ba trăm năm mươi bốn nghìn ba trăm chín mươi chín đồng).

[3] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hoàng Thị Phong T là người cao tuổi, được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo Nguyễn Thị Kim L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định, để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trốn thuế số 51/2024/HS-ST

Số hiệu:51/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;