TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TỘI TRỐN THUẾ
Trong ngày 14 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 31/2023/TLST-HS, ngày 31 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2023/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: H Mạnh H; Giới tính: Nam; Sinh năm 1957; Nơi sinh: Huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Khu 9, xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Hưu trí. Hiện đang là Giám đốc Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C; Trình độ học vấn: 10/10; Là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam (đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng);
Con ông H Khắc V (đã chết) và H Thị L.
Anh chị em ruột có: 07 người, bị cáo là con thứ tư; Vợ: Phạm Thị M; Con: có 02 con, lớn sinh năm 1987, nhỏ sinh năm 1991; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Chi cục Thuế khu vực Thanh Ba - Hạ Hòa.
Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Thanh Ba, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Do ông Bùi Văn Q - Chi cục trưởng đại diện (vắng mặt).
2/ Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C do ông Nguyễn Sỹ H, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Khu 3, xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ - Phó giám đốc đại diện (có mặt);
Người làm chứng :
1/ Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1962; Nơi cư trú: Tổ 2, khu 1, phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ - Là giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại H Trang; địa chỉ: Tổ 2, khu 1, phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ (Vắng mặt).
2/ Bà Trần Thị Thanh H, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Đội 2, xã T, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ - Là kế toán Công ty TNHH Dịch vụ Thương mại H Trang; địa chỉ: Tổ 2, khu 1, phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ (Vắng mặt).
3/ Ông Đỗ Ngọc Ch, sinh năm 1968; Nơi cư trú: Khu 5, xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ (Có mặt);
4/ Ông Nguyễn Sỹ H, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Khu 3, xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ (Có mặt);
5/ Ông Chu Minh G, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Khu 2, xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ (Có mặt);
6/ Ông Phạm Hữu N, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Khu 7, xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ (Có mặt);
7/ Anh Trần Văn L, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Khu 2, xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ (Có mặt);
8/ Ông Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Khu 9, xã Sơn Cương, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ (Có mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C được UBND huyện Thanh Ba cấp Giấy chứng nhận đăng ký Hợp tác xã số: 180507000004, đăng ký lần đầu ngày 25/5/2016, địa chỉ kinh doanh: Khu 9, xã C, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, ngành nghề kinh doanh: Bán lẻ điện cho người sử dụng, mã số thuế: 2600311709, đăng ký kê khai nộp thuế tại Chi cục Thuế khu vực Thanh Ba - Hạ Hoà, người đại diện theo pháp luật: Ông H Mạnh H - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc.
Trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2021, H Mạnh H đã lập khống chứng từ chi tiền lương, tiền nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (được viết tắt là: BHXH, BHYT, BHTN) cho người lao động trong khi thực tế không chi trả hoặc chi trả thấp hơn để hạch toán, kê khai chi phí sản xuất, kinh doanh của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C khi quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Ngoài ra, trong năm 2018 và năm 2019, H Mạnh H đã mua, sử dụng bất hợp pháp 08 số hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) của Công ty TNHH Dịch vụ và Thương mại H Trang, địa chỉ: Tổ 2, Khu 1, phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thông qua việc: Nâng khống một phần hoặc khống toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ ghi trên hóa đơn, để kê khai khấu trừ thuế GTGT mua vào và hạch toán chi phí, cụ thể:
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh theo số liệu Báo cáo tài chính của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C năm 2017, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là 4.960.922.832 đồng, trong đó: Theo chứng từ kê khai quyết toán thuế, khoản chi tiền lương, chi tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN: 228.330.000 đồng. Nhưng thực tế chi tiền lương, chi nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động: 160.445.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền chi khống tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động năm 2017 là: 67.885.000 đồng.
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh theo số liệu Báo cáo tài chính của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C năm 2018, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là: 5.524.793.850 đồng. Theo chứng từ kê khai quyết toán thuế, chi tiền lương, chi tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN: 328.470.000 đồng. Nhưng thực tế chi tiền lương, chi nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động: 199.680.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền chi khống tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động năm 2018 là: 128.790.000 đồng.
Ngoài ra, trong năm 2018, Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C đã mua và sử dụng trái phép 03 liên hóa đơn GTGT do Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang phát hành ghi khống số hàng hóa, dịch vụ, cụ thể:
+ Liên hóa đơn GTGT số 0000593, ngày 25/3/2018: Tổng tiền thanh toán ghi trên hóa đơn: 6.226.000 đồng. Trong đó, tiền mua hàng hóa thực tế mà Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C thanh toán cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang: 2.726.000 đồng.
+ Liên hóa đơn GTGT số 0001150, ngày 22/9/2018: Tổng tiền thanh toán ghi trên hóa đơn: 13.750.000 đồng. Trong đó, tiền mua hàng hóa thực tế mà Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C thanh toán cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang: 0 đồng. Tiền mua hoá đơn là 1.250.000đ.
+ Liên hóa đơn GTGT số 0001282, ngày 27/10/2018: Tổng tiền thanh toán ghi trên hóa đơn: 10.472.000 đồng. Trong đó, tiền mua hàng hoá thực tế mà Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C thanh toán cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang: 3.472.000 đồng.
Tổng giá trị thanh toán của 03 số hóa đơn là: 30.448.000 đồng.
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh theo số liệu Báo cáo tài chính của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C năm 2019, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: 6.780.658.727 đồng. Theo chứng từ kê khai quyết toán thuế, chi tiền lương, chi tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động là: 342.000.000 đồng. Nhưng thực tế chi tiền lương, chi nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động: 241.520.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền chi khống tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động năm 2019 là: 100.480.000 đồng.
Ngoài ra, trong năm 2019, Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C đã mua và sử dụng trái phép 05 liên hóa đơn GTGT do Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang phát hành ghi khống số hàng hóa, dịch vụ, cụ thể:
+ Liên hóa đơn GTGT số 0001777, ngày 18/4/2019: Tổng tiền thanh toán ghi trên hóa đơn: 16.720.000 đồng. Trong đó, tiền mua hàng hoá thực tế mà Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C thanh toán cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang: 0 đồng. Tiền mua hóa đơn: 2.006.400 đồng.
+ Liên hóa đơn GTGT số 0001926, ngày 30/5/2019: Tổng tiền thanh toán ghi trên hóa đơn: 16.500.000 đồng. Trong đó, tiền mua hàng hoá thực tế mà Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C thanh toán cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang: 0 đồng. Tiền mua hóa đơn: 1.980.000 đồng.
+ Liên hóa đơn GTGT số 0002142, ngày 25/7/2019: Tổng tiền thanh toán ghi trên hóa đơn: 15.961.000 đồng. Trong đó, tiền mua hàng hoá thực tế mà Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C thanh toán cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang: 12.086.000 đồng.
+ Liên hóa đơn GTGT số 0002162, ngày 30/7/2019: Tổng tiền thanh toán ghi trên hóa đơn: 17.925.600 đồng. Trong đó, tiền mua hàng hoá thực tế mà Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C thanh toán cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang: 7.281.600 đồng.
+ Liên hóa đơn GTGT số 0002261, ngày 31/8/2019: Tổng tiền thanh toán ghi trên hóa đơn: 19.932.000 đồng. Trong đó, tiền mua hàng hoá thực tế mà Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C thanh toán cho Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang: 4.418.000 đồng.
Tổng giá trị thanh toán của 05 số hóa đơn là: 87.038.600 đồng Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh theo số liệu Báo cáo tài chính của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C năm 2020, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là: 7.450.346.866 đồng. Theo chứng từ kê khai quyết toán thuế, chi tiền lương, chi tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động : 513.960.000 đồng. Nhưng thực tế chi tiền lương, chi nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động: 264.720.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền chi khống tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động năm 2020 là: 249.240.000 đồng.
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh theo số liệu Báo cáo tài chính của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C năm 2021, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: 8.854.619.472 đồng. Theo chứng từ kê khai quyết toán thuế, chi tiền lương, chi tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động là: 351.600.000 đồng. Thực tế chi tiền lương, chi nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động:
277.800.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền chi khống tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động năm 2021 là: 73.800.000 đồng.
Ngoài ra từ năm 2017 đến năm 2021, HTX dịch vụ điện năng xã C nộp chi phí tiền lãi, phí của dự án năng lượng nông thôn II (REII) tổng số tiền là 89.711.933 đồng.
Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ trưng cầu Cục Thuế tỉnh Phú Thọ giám định thiệt hại tài chính về thuế đối với hành vi lập khống chứng từ chi tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động từ năm 2017 đến năm 2021 với tổng số tiền 620.195.000 đồng và hành vi mua, sử dụng 08 liên hóa đơn GTGT do Công ty TNHH dịch vụ thương mại H Trang phát hành ghi tăng khống giá trị hàng hóa, dịch vụ với tổng số tiền 106.806.000 đồng để kê khai thuế GTGT, quyết toán thuế TNDN của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C. Tại Kết luận giám định của Cục Thuế tỉnh Phú Thọ ngày 20/4/2023 xác định:
Xác định thiệt hại về thuế GTGT: Toàn bộ số tiền thuế GTGT của 08 số hoá đơn GTGT mà HTX C sử dụng bất hợp pháp nêu trên đều không đủ điều kiện khấu trừ thuế GTGT mua vào theo quy định tại Khoản 15 Điều 14, Khoản 1 Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính. Tổng số thuế GTGT không đủ điều kiện khấu trừ là: 10.680.600 đồng.
Xác định thiệt hại về thuế TNDN:
- Đối với số tiền chi khống tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động từ năm 2017 đến năm 2021 nêu trên, HTX C sẽ không được tính vào chi phí được trừ khi quyết toán thuế TNDN. Tổng số tiền chi khống là 620.195.000 đồng… - Đối với chi phí mua hàng hoá đã hạch toán của 08 số hoá đơn GTGT mà HTX C sử dụng bất hợp pháp nêu trên, HTX C sẽ không được tính vào chi phí được trừ khi quyết toán thuế TNDN. Tổng giá trị hàng hoá không được tính là 106.806.000 đồng… - Đối với chi phí tiền lãi, phí của dự án năng lương nông thôn II (REII) đã chi trả, HTX C sẽ được tính vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN. Tổng số chi phí được tính là 89.711.933 đồng… - Căn cứ tình hình kê khai quyết toán thuế TNDN, số thuế TNDN theo kết quả điều tra của HTX C như sau:
Năm 2017: Thuế TNDN phải nộp 8.930.577đ, thuế TNDN đã nộp 0 đồng, thuế TNDN phải nộp tăng 8.930.577đ.
Năm 2018: Thuế TNDN phải nộp 27.254.790đ, thuế TNDN đã nộp 0 đồng, thuế TNDN phải nộp tăng 27.254.790đ.
Năm 2019: Thuế TNDN phải nộp 34.316.057, thuế TNDN đã nộp 1.981.615đ, thuế TNDN phải nộp tăng 32.334.442đ.
Năm 2020: Thuế TNDN phải nộp 35.989.207đ, thuế TNDN đã nộp 2.803.738đ, thuế TNDN phải nộp tăng 33.185.469đ.
Năm 2021: Thuế TNDN phải nộp 17.017.605đ, thuế TNDN đã nộp 4.205.522đ, thuế TNDN phải nộp tăng 12.812.083đ… Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C phải nộp đủ số tiền thuế truy thu vào Ngân sách Nhà nước là 125.197.961 đồng (trong đó, thuế GTGT là:
10.680.600 đồng; thuế TNDN là: 114.517.361 đồng).
Tại Cơ quan điều tra, H Mạnh H khai nhận: Từ năm 2017 đến năm 2021, H đã cung cấp số liệu khống các khoản chi tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN của người lao động trong khi thực tế không chi trả hoặc chi trả thấp hơn cho kế toán (từ năm 2017 đến năm 2018 là ông Trần Văn L; từ năm 2019 đến năm 2021 là ông Nguyễn Thanh Q) lập chứng từ để hạch toán, kê khai chi phí khi quyết toán thuế TNDN nhằm giảm số thuế TNDN phải nộp theo quy định. Ngoài ra, để thực hiện hành vi trốn thuế, năm 2018, năm 2019, H Mạnh H đã mua, sử dụng 08 liên hoá đơn GTGT do Công ty TNHH Dịch vụ và Thương mại H Trang phát hành để hạch toán chi phí vật tư mua vào nhằm tăng số tiền thuế GTGT được hoàn và giảm số tiền thuế TNDN phải nộp. Việc H Mạnh H kê khai sai chi phí sản xuất, kinh doanh của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C để trốn thuế, H Mạnh H không bàn bạc với ai trong Hội đồng cổ đông và nhân viên nào, mà do H tự ý quyết định và chỉ đạo thực hiện.
Quá trình xác minh giải quyết tin báo, ngày 23/12/2022, H Mạnh H đã tự nguyện nộp số tiền 70.000.000đ là tiền cá nhân của H Mạnh H theo hình thức nộp thuế điện tử tại Chi cục thuế khu vực Thanh Ba - Hạ Hoà để khắc phục hậu quả hành vi trốn thuế. Chi cục thuế khu vực Thanh Ba - Hạ Hoà tính là khoản tiền thuế TNDN kỳ thuế 00/CN//2022 – mã chương 756, tiểu mục 1052, Phụ lục III Thông tư số 324/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính. Ngày 25/4/2023, H Mạnh H tự nguyện giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Ba số tiền 71.000.000 đồng để tiếp tục khắc phục hậu quả hành vi trốn thuế.
Ông Trần Văn L, sinh năm 1992, trú tại khu 2, xã C được thuê làm Kế toán năm 2017 và ông Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1963, trú tại khu 9, xã Sơn Cương, huyện Thanh Ba là Kế toán HTX dịch vụ điện năng xã C đều trình bày được H Mạnh H cung cấp hoá đơn, chứng từ hoặc đọc số liệu từ sổ ghi chép cá nhân của H Mạnh H để xây dựng báo cáo tài chính, quyết toán thuế và lập các loại sổ sách; không biết cụ thể hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX như thế nào.
Ông Đỗ Ngọc Ch, sinh năm 1968, ở khu 5, xã C trước đây là người lao động của HTX, nhưng từ năm 2017 đã nghỉ việc; các ông Nguyễn Sỹ H, sinh năm 1970 ở khu 3, xã C và ông Chu Minh G, sinh năm 1972, ở khu 2, xã C đều là người lao động của HTX; ông Phạm Hữu N, sinh năm 1970, ở khu 7, xã C là em rể H Mạnh H đều trình bày do nể nang nên đã ký tên nhận tiền vào sổ lương của HTX, không biết mục đích việc làm của H Mạnh H để trốn thuế, không được bàn bạc gì về việc trốn thuế.
Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1962, thường trú tại tổ 2, khu 1, phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ - Giám đốc và bà Trần Thị Thanh H, sinh năm 1983, thường trú tại đội 2, xã Thuỵ Vân, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ - Kế toán Công ty TNHH Dịch vụ và Thương mại H Trang đều trình bày H Mạnh H là khách hàng của công ty, trong quá trình giao dịch năm 2018 – 2019 đã bán trái phép 08 liên hoá đơn ghi tăng hoặc ghi khống số tiền mua hàng hoá, dịch cho H Mạnh H sử dụng để kê khai quyết toán thuế với số tiền ghi tăng hoặc ghi khống là 87.503.000đ, thu lợi bất chính số tiền 5.236.400đ.
Về vật chứng của vụ án gồm: 01 quyển sổ nhãn hiệu Hải Tiến, bìa cứng màu đen, gồm 82 tờ; 01 quyển sổ nhãn hiệu Minh Châu, bìa cứng màu đỏ, gồm 60 tờ do H Mạnh H giao nộp và trình bày là sổ ghi chép hoạt động của HTX dịch vụ điện năng xã C cùng 1.913 trang tài liệu thu giữ của HTX dịch vụ điện năng xã C phản ánh về cơ cấu tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX (có trong hồ sơ). Và số tiền 71.000.000đ là tiền của cá nhân H Mạnh H tự nguyện khắc phục hậu quả hành vi trốn thuế.
Về dân sự: Các cổ đông của HTX dịch vụ điện năng xã C không có yêu cầu đề nghị gì.
Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi vi phạm pháp luật của mình như trên. Những người làm chứng có mặt đều xác nhận nội dung vụ việc đúng như bị cáo H Mạnh H đã trình bày và không có đề nghị gì khác.
Bản Cáo trạng số: 33/CT-VKSTB ngày 28/7/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo H Mạnh H về tội “Trốn thuế” theo quy định tại khoản 1 Điều 200 của Bộ luật Hình sự 2015. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đã trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị với Hội đồng xét xử như sau:
Tuyên bố bị cáo H Mạnh H phạm tội “Trốn thuế”.
Áp dụng khoản 1 Điều 200; điểm b, i, s, v khoản 1; khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54 và Điều 35 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo H Mạnh H từ 60 triệu đồng đến 80 triệu đồng nộp Ngân sách Nhà nước.
Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- 01 quyển sổ nhãn hiệu Hải Tiến, bìa cứng màu đen, gồm 82 tờ; 01 quyển sổ nhãn hiệu Minh Châu, bìa cứng màu đỏ, gồm 60 tờ do H Mạnh H giao nộp và trình bày là sổ ghi chép hoạt động của HTX dịch vụ điện năng xã C cùng 1.913 trang tài liệu thu giữ của HTX dịch vụ điện năng xã C phản ánh về cơ cấu tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX. Toàn bộ tài liệu, chứng cứ trên đề nghị lưu trong hồ sơ vụ án.
- Truy thu số tiền 125.197.961đ để nộp ngân sách Nhà nước.
- Đề nghị HĐXX xác nhận bị cáo H Mạnh H đã nộp số tiền 71.000.000đ tại Cơ quan điều tra và số tiền 70.000.000đ tại Chi cục Thuế khu vực Thanh Ba – Hạ Hòa để khắc phục hậu quả do hành vi trốn thuế.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX không xem xét về trách nhiệm dân sự.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét án phí theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghe Kiểm sát viên trình bày luận tội, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không bị oan. Bị cáo không tự bào chữa và cũng không tranh luận gì; Bị cáo là người cao tuổi nên xin được miễn tiền án phí hình sự. Bị cáo nói lời sau cùng chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất và xin được miễn tiền án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Ba, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Ba, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo H Mạnh H đã thừa nhận:
Trong thời gian từ năm 2017 đến năm 2021, H Mạnh H đã chỉ đạo kế toán lập khống chứng từ chi tiền lương, tiền nộp BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động với tổng số tiền 620.195.000đ nhằm giảm số thuế phải nộp. Mua, sử dụng 08 liên hóa đơn GTGT trái phép do Công ty TNHH Dịch vụ và Thương mại H Trang phát hành ghi tăng khống giá trị hàng hóa, dịch vụ với tổng số tiền là 106.806.000đ nhằm giảm số tiền thuế phải nộp và tăng số tiền thuế được khấu trừ để quyết toán thuế TNDN của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C, gây thiệt hại về thuế (trốn thuế) nộp vào Ngân sách nhà nước là 125.197.961đ. Hnh vi của H Mạnh H đã vi phạm Điều 23 Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính và Điều 143 Luật quản lý thuế quy định về hành vi trốn thuế.
Hnh vi trốn thuế của bị cáo H Mạnh H đã gây thiệt hại về thuế của Nhà nước với số tiền 125.197.961 đồng, do vậy cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai mà bị cáo khai trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng; phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra vụ án, vật chứng thu giữ được cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo H Mạnh H phạm tội “Trốn thuế”, được quy định tại khoản 1 Điều 200 của Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 200 Bộ luật hình sự 2015 quy định như sau:
"1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội qui định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm… d, Sử dụng hoá đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn.
đ, Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn…" Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Ba truy tố bị cáo H Mạnh H về tội danh cũng như điều luật áp dụng là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; Hội đồng xét xử thấy rằng:
Bị cáo H Mạnh H phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Nhưng hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý thuế của Nhà nước dẫn đến thất thu ngân sách, gây thiệt hại tiền thuế cho Nhà nước. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và có điều kiện để nhận thức về pháp luật, có sức khỏe và hiểu biết xã hội nhưng bị cáo đã coi thường pháp luật dẫn đến phạm tội. Vì vậy, vụ án cần phải đưa ra xét xử kịp thời và nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.
Bị cáo H Mạnh H trước lần phạm tội này chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Khi bị phát hiện và quá trình điều tra, bị cáo đã tự nguyện nộp tiền để khắc phục hậu quả. Quá trình công tác và tham gia quân ngũ của bản thân, bị cáo được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhì; Bố bị cáo là ông H Khắc V đã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống M cứu nước hạng Nhì. Do đó, bị cáo H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Xét thấy, bị cáo H Mạnh H có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử có thể áp dụng dưới khung hình phạt nhẹ nhất theo quy định tại khoản 3 Điều 54 của Bộ luật hình sự. Do đó, chỉ cần áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 4 Điều 200 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000đ đến 100.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, hiện là người cao tuổi, có tài sản chung với gia đình, không có tài sản riêng gì lớn. Mặt khác, bị cáo đã bị áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
[5]. Về các vấn đề khác liên quan đến vụ án:
Đối với hành vi H Mạnh H mua, sử dụng 08 liên hóa đơn giá trị gia tăng trái phép do Công ty TNHH Dịch vụ và Thương mại H Trang phát hành trong đó giá trị hàng hoá, dịch vụ là 106.806.000đ, thuế GTGT là 10.680.600đ không cấu thành tội “In, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”, quy định tại Điều 203 Bộ luật Hình sự, mà vi phạm điểm d, điểm đ, khoản 1, Điều 17 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP, ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hoá đơn. Tuy nhiên, đến nay đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Ba không đề cập hình thức xử lý là phù hợp.
Đối với ông Nguyễn Văn S - Giám đốc và bà Trần Thị Thanh H - Kế toán Công ty TNHH Dịch vụ và Thương mại H Trang, đã thực hiện hành vi bán trái phép hoá đơn đã ghi nội dung hàng hoá, dịch vụ cho H Mạnh H sử dụng để kê khai quyết toán thuế. Hnh vi của ông S và bà H với số lượng dưới 10 số hoặc thu lợi bất chính dưới 30.000.000đ, không cấu thành tội “In, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”, quy định tại Điều 203 Bộ luật Hình sự; mà vi phạm khoản 1, Điều 28 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP, ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hoá đơn. Tuy nhiên, đến nay đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Ba không đề cập hình thức xử lý đối với ông S và bà H là phù hợp.
Đối với ông Trần Văn L - Nguyên Kế toán và ông Nguyễn Thanh Q - Kế toán Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C: Do không được bàn bạc với H Mạnh H về việc trốn thuế, ông L và ông Q không biết số liệu chi phí sản xuất kinh doanh thực tế của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C mà chỉ hạch toán sổ sách kế toán kê khai quyết toán thuế theo số liệu mà H Mạnh H cung cấp. Vì vậy, trong vụ án này ông L và ông Q không đồng phạm với bị cáo H về tội Trốn thuế, nên không xem xét xử lý hình sự đối với ông L và ông Q.
Đối với ông Đỗ Ngọc Ch nghỉ việc từ năm 2017, nhưng vẫn nộp tiền đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp dưới danh nghĩa người lao động tại HTX dịch vụ điện năng xã C; ông Phạm Hữu N không làm việc tại HTX; ông Chu Minh G, ông Nguyễn Sỹ H đều là người lao động của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C. Việc ông Ch, ông N, ông G, ông H ký nhận tiền vào sổ lương của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C không đúng hoặc cao hơn với thực tế chi trả lương, ông Ch, ông N, ông G, ông H đều không biết H Mạnh H sử dụng để hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C nhằm trốn thuế và không được bàn bạc về việc trốn thuế với H Mạnh H. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Ba không đề cập hình thức xử lý với ông Ch, ông N, ông G, ông H là phù hợp.
[6]. Về vật chứng của vụ án:
- Đối với các vật chứng: 01 quyển sổ nhãn hiệu Hải Tiến, bìa cứng màu đen, gồm 82 tờ; 01 quyển sổ nhãn hiệu Minh Châu, bìa cứng màu đỏ, gồm 60 tờ do H Mạnh H giao nộp và trình bày là sổ ghi chép hoạt động của HTX dịch vụ điện năng xã C cùng 1.913 trang tài liệu thu giữ của HTX dịch vụ điện năng xã C phản ánh về cơ cấu tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX.
Xét thấy, đây là tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, chuyển lưu hồ sơ vụ án hình sự tại Tòa án.
- Đối với số tiền 71.000.000đ bị cáo H Mạnh H đã nộp tại Cơ quan điều tra ngày 25/4/2023 và số tiền 70.000.000đ bị cáo H Mạnh H đã nộp tại Chi cục Thuế khu vực Thanh Ba – Hạ Hòa ngày 23/12/2022. Đây là số tiền bị cáo tự nguyện nộp nhằm mục đích khắc phục hậu quả do hành vi trốn thuế của mình gây ra. Do đó cần xác nhận bị cáo đã nộp tổng số tiền để khắc phục hậu quả là 141.000.000đ. Đối trừ với số tiền bị cáo đã trốn thuế là 125.197.961đ tịch thu nộp ngân sách Nhà nước thì còn lại 15.802.039đ cần trả lại cho bị cáo.
Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo nhất trí dùng số tiền 15.802.039đ để nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C năm 2022 là 15.689.362đ. Số tiền còn thừa là 112.677đ bị cáo xin nhận lại. Xét thấy, việc bị cáo H dùng số tiền 15.802.039đ để nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C năm 2023 là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận. Còn số tiền 112.677đ trả lại cho bị cáo là hoàn toàn phù hợp.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
Về trách nhiệm dân sự: Đối với khoản tiền 15.689.362đ Bị cáo H đã tự nguyện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C năm 2022. Tại phiên tòa bị cáo H Mạnh H và đại diện Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C không đề nghị giải quyết. Xét thấy, đây là mối quan hệ dân sự giữa bị cáo H Mạnh H và Hợp tác xã dịch vụ điện năng xã C, nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý trong vụ án này, sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ việc dân sự khác khi có yêu cầu.
[8]. Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi, tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy việc miễn án phí cho bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[9]. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã trình bày luận tội đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo như Cáo trạng đã truy tố, đề nghị điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với bị cáo và đề xuất về xử lý vật chứng. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Về điều luật áp dụng:
Căn cứ khoản 1 Điều 200, điểm b, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54, Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[2]. Về tội danh và hình phạt:
Tuyên bố: Bị cáo H Mạnh H phạm tội “Trốn thuế”.
Xử phạt bị cáo H Mạnh H 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) nộp Ngân sách Nhà nước.
Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3]. Về xử lý vật chứng:
Lưu hồ sơ vụ án toàn bộ vật chứng gồm: 01 quyển sổ nhãn hiệu Hải Tiến, bìa cứng màu đen, gồm 82 tờ; 01 quyển sổ nhãn hiệu Minh Châu, bìa cứng màu đỏ, gồm 60 tờ do H Mạnh H giao nộp và trình bày là sổ ghi chép hoạt động của HTX dịch vụ điện năng xã C cùng 1.913 trang tài liệu thu giữ của HTX dịch vụ điện năng xã C phản ánh về cơ cấu tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX.
Tịch thu số tiền 125.197.961đ (Một trăm hai mươi lăm triệu, một trăm chín mươi bảy nghìn, chín trăm sáu mươi mốt đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.
Xác nhận bị cáo H Mạnh H đã tự nguyện nộp toàn bộ số tiền để khắc phục hậu quả (Trong đó ngày 25/4/2023 bị cáo đã nộp tại Cơ quan điều tra công an huyện Thanh Ba là 71.000.000đ (Bảy mươi mốt triệu đồng) và ngày 23/12/2022, bị cáo tự nguyện nộp khoản tiền trốn thuế thu nhập doanh nghiệp là 54.310.638đ (Năm mươi tư triệu ba trăm mười nghìn sáu trăm ba mươi tám đồng) trong tổng số tiền đã tạm nộp tại Chi cục Thuế khu vực Thanh Ba - Hạ Hòa 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng chẵn) để thực hiện các nghĩa vụ thuế TNDN kỳ thuế 00/CN//2022 – mã chương 756, tiểu mục 1052, Phụ lục III Thông tư số 324/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính).
Trả lại cho bị cáo H số tiền 112.677đ (Một trăm mười hai nghìn sáu trăm bảy mươi bảy đồng chẵn) nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.
(Số tiền 71.000.000đ hiện đang tạm giữ trong tài khoản số 3949.0.1054407.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Ba tại Kho bạc Nhà nước huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, theo giấy ủy nhiệm chi giữa Công an huyện Thanh Ba với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Ba số 100 ngày 08/8/2023).
[4]. Về án phí: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo H Mạnh H.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm./.
Bản án về tội trốn thuế số 42/2023/HS-ST
Số hiệu: | 42/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Ba - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về