Bản án về tội trốn khỏi nơi giam số 64/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 64/2024/HS-ST NGÀY 30/08/2024 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM

Ngày 30 tháng 8 năm 2024. Tại: Trụ sở Trại giam S - Bộ Cl, tại xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An.

Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2024/HSST, ngày 03 tháng 4 năm 2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2024/QĐXXST-HS, ngày 26/4/2024, đối với:

1. Bị cáo: Lê Thị H, sinh ngày 10/8/2000. Nơi cư trú: Thôn G, xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở hiện nay: Đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam S - Bộ. Thẻ CCCD: 03830000xxxx. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; con ông: Lê Văn C, sinh năm 1977 và bà Lê Thị T, sinh năm 1978; chồng: Mai Văn Đ, sinh năm 1993; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2021; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 13/01/2023 bị Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá, xử phạt 42 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, hiện đang chấp hành án từ ngày 28/7/2023.

Nhân thân: Ngày 28/02/2021 bị Công an thị trấn T, huyện T, xử phạt hành chính về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam S, theo Bản án số 04/2023/HS ST ngày 13/01/2023 của Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá; có mặt tại phiên toà.

2. Người làm chứng:

2.1. Anh; Lê Văn B, sinh năm 1996. Nơi làm việc: Đội Bảo vệ, P trại số 1, Trại giam S, đóng tại xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2.2. Anh; Phạm Xuân T1, sinh năm 1992. Nơi làm việc: Cán bộ quản giáo, Phân trại số 1, Trại giam S, đóng tại xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2.3. Chị; Trương Thị T2, sinh năm 1971. Địa chỉ: Hiện là phạm nhân đang cải tạo tại Phân trại số A, Trại giam S, đóng tại xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2.4. Chị; Nguyễn Thị H1, sinh năm 2002. Địa chỉ: Hiện là phạm nhân đang cải tạo tại Phân trại số A, Trại giam S, đóng tại xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm như sau: Ngày 11/09/2023, phạm nhân Lê Thị H được phân về Đội số 6, P trại Số A, Trại giam S đóng trên địa bàn xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An theo Quyết định số 808/QĐ-TS ngày 11/09/2023, do đồng chí Phạm Xuân T1 (sinh năm 1992) làm quản giáo để chấp hành 42 (bốn mươi hai) tháng tủ theo Bản án số 04/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội “Lửa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 12/6/2024, sau khi lao động về, các phạm nhân tập trung ở nhà L (là nơi tập trung của quản giáo và phạm nhân trước, sau lao động; để dụng cụ lao động; nơi tắm rửa vệ sinh của phạm nhân sau khi lao động về,…) để tiến hành tắm rửa vệ sinh trước khi trở về nơi giam. Lê Thị H xin tắm trước, nên sau khi tắm xong H mặc quần do Trại giam Số 6 cấp phát, mặc áo màu xanh dương có đóng dấu chữ “PHẠM NHÂN” phía sau lưng (áo này không phải do trại giam Số 6 cấp phát) khoác ngoài là áo do Trại giam Số 6 cấp phát rồi một mình đi đến nơi sinh hoạt chung của phạm nhân Đội số 6 chờ các phạm nhân khác tắm rửa vệ sinh để trở về khu giam. Quá trình chờ, H nảy sinh ý định trốn trại về thăm con. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, H đến nói với đồng chí Phạm Xuân T1: “Cho cháu đi vệ sinh một tỷ” (ý xin đi vệ sinh tại khu vực nhà vệ sinh ở phía sau của nhà L) thì được đồng chí T1 đồng ý. Ngay sau đó, H đi ra khu vực chuồng chăn nuôi bò của Đội số 6 tìm cơ hội để bỏ trốn. Lúc này, H thấy một chiếc quần dài, màu đen vắt trên chuồng bò (quần này không phải do Trại giam Số 6 cấp phát) nên đã lấy chiếc quần này đi vào chuồng bò thay quần do Trại giam số 6 cấp phát rồi cởi áo ngoài do Trại giam số 6 cấp phát và bỏ quần, áo do Trại giam Số 6 cấp phát tại chuồng bò. Quan sát thấy không có ai xung quanh, H chui qua hàng rào của Đội, chạy qua đường nhựa rồi vào vườn trồng cây mía và trốn ở đó chờ trời tối để bắt xe về nhà tại tỉnh Thanh Hóa. Cùng lúc này, các phạm nhân tắm rửa xong nên đồng chí T1 tập trung các phạm nhân trong Đội lại để tiến hành kiểm danh, kiểm diện trước khi dẫn giải về nơi giam. Phát hiện không thấy phạm nhân Lê Thị H nên đồng chí T1 gọi to: “Hiền ơi, nhanh để về” nhưng không thấy trả lời. Xác định phạm nhân H đã trốn trại, đồng chí T1 đã tập hợp các phạm nhân trong Đội lại tại nhà L và bắn súng báo động ba phát, báo cáo lãnh đạo Trại giam để tiến hành truy bắt. Khi nghe thấy tiếng súng nổ và tiếng người gọi, để tránh sự phát hiện, nên H ngồi im trong vườn mía. Đến khoảng 19 giờ 15 phút, ngày 12/6/2024, khi Lê Thị H đang ẩn hấp sau cột điện bên trong vườn mía thì bị đồng chí Lê Văn B (sinh năm 1996) cán bộ Phân trại số 1, phát hiện thấy. Xác nhận đúng là phạm nhân H nên đồng chí B cùng tổ công tác của Trại giam số 6 tiến hành đưa phạm nhân H về khu vực giam giữ thuộc Phân trại số 1, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản Cáo trạng số 65/CT-VKS-TC ngày 16/8/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đã truy tố Lê Thị H, về tội “Trốn khỏi nơi giam” theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Thị H, từ 09 đến 12 tháng tù. Đối với Bản án số 04/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, hiện nay bị cáo đã chấp hành được 01 năm 01 tháng 02 ngày, hiện còn phải chấp hành 02 năm 04 tháng 28 ngày. Do đó, áp dụng khoản 2 Điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt 02 năm 04 tháng 29 ngày của Bản án số 04/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 buộc bị cáo phải chịu mức án chung từ 03 năm 01 tháng 28 ngày đến 03 năm 4 tháng 28 ngày. Thời hạn tù tính từ ngày xét xử sơ thẩm (30/8/2024). Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cái áo, 01 (một) cái quần mà Lê Thị H sử dụng, mặc khi trốn; Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Thị H, đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng; phù hợp với vật chứng thu được; phù hợp với biên bản phạm tội quả tang.

Xét về chứng cứ đã có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 12/6/2024, tại khu vực nhà L ở P, Trại giam S, Cục C2, Bộ C1 thuộc địa bàn xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An, trong thời gian đang chấp hành án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 04/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá, phạm nhân Lê Thị H đã có hành vi trốn khỏi nơi giam để về nhà ở tỉnh Thanh Hóa thì bị Tổ công tác Trại giam số 6 bắt quả tang.

Như vậy đã có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Lê Thị H, phạm tội “Trốn khỏi nơi giam”, như Viện kiểm sát truy tố là đúng.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, ảnh hưởng đến an ninh trật xã hội; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về chế độ cải tạo phạm nhân, vi phạm nội quy của Trại giam, xâm phạm đến hoạt động bình thường của Trại giam. Trong thời gian chấp hành án tại Trại giam S, Lê Thị H đã được học nội quy, quy chế, được giáo dục, cải tạo để sớm trở thành công dân có ích cho xã hội; nhưng Lê Thị H không yên tâm cải tạo, mà lại có hành vi bỏ trốn khỏi nơi giam.

Bị cáo là người có nhân thân xấu (tiền án), bản thân bị cáo đang chấp hành án với hình phạt 42 tháng tù về tội Lửa đảo chiếm đoạt tài sản. Cho nên cần xét xử nghiêm, mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình; đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cho nên cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[4] Hiện nay bị cáo đang chấp hành án hình phạt 42 tháng tù của Bản án số 04/2023/HS-ST, ngày 13/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa; cho nên cần áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, để tổng hợp hình phạt của 02 bản án và buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 02 bản án.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra có thu giữ: 01 (một) cái áo, 01 (một) cái quần mà Lê Thị H sử dụng, mặc khi trốn.

Xét thấy các vật chứng này liên quan đến vụ án, không có giá trị lớn; cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với anh Phạm Xuân T1 là cán bộ Cảnh sát quản giáo trực tiếp phụ trách, quản lý phạm nhân Lê Thị H; trong quá trình quản lý phạm nhân anh Phạm Xuân T1 đã thực hiện đúng các quy trình, quy định, cho nên không vi phạm quy định tại Điều 376 Bộ luật hình sự; cho nên không xem xét xử lý anh Phạm Xuân T1 là có căn cứ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản Điều 52; Điều 56 Bộ luật Hình sự. Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị H, phạm tội “ Trốn khỏi nơi giam”.

2. Xử phạt bị cáo: Lê Thị H, 12 (mười hai) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt 42 (bốn hai) tháng tù của Bản án số 04/2023/HS-ST ngày 13/01/2023 của Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá; buộc bị cáo Lê Thị H phải chấp hành tổng hợp hình phạt của 02 Bản án là: 54 (năm tư) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 28/7/2023.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cái áo, 01 (một) cái quần.

(Chi tiết vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/8/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An).

4. Về án phí: Bị cáo Lê Thị H, phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo, có quyền kháng cáo lên Toà án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trốn khỏi nơi giam số 64/2024/HS-ST

Số hiệu:64/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;