TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 109/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM
Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:
90/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn H; sinh ngày 12 tháng 02 năm 1991, tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang; nơi thường trú: thôn Am, xã Tân Hiệp, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: lớp 9/12; nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn Văn H1 và bà Lại Thị M; vợ, con:
chưa có; tiền sự: không; tiền án: ngày 20/4/2012, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 13 năm tù về các tội “Giết người” và “Cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2011; hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Phân trại số 2, Trại giam Quảng Ninh; có mặt.
* Những người làm chứng:
1) Ông Phạm Vĩnh N; cán bộ quản giáo, Phân trại số 02, Trại giam Quảng Ninh, thuộc thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt);
2) Ông Trần Việt H; cán bộ bảo vệ, Phân trại số 02, Trại giam Quảng Ninh, thuộc thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt);
3) Ông Nguyễn Huy H; Trưởng Phân trại số 02, Trại giam Quảng Ninh, thuộc thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt);
4) Ông Nguyễn Tiến H, chức vụ: Trưởng Công an xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt);
5) Phạm nhân: Phạm Hoài N, sinh năm 1993; đang chấp hành án phạt tù tại Phân trại số 02, Trại giam Quảng Ninh, thuộc thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (Tòa án không triệu tập);
6) Phạm nhân: Đỗ Mạnh C, sinh năm 1980; đang chấp hành án phạt tù tại Phân trại số 02, Trại giam Quảng Ninh, thuộc thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (Tòa án không triệu tập);
7) Phạm nhân: Bùi Duy B, sinh năm 1988; đang chấp hành án phạt tù tại Phân trại số 02, Trại giam Quảng Ninh, thuộc thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (Tòa án không triệu tập);
8) Phạm nhân: Đinh Ngọc T, sinh năm 1991; đang chấp hành án phạt tù tại Phân trại số 02, Trại giam Quảng Ninh, thuộc thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (Tòa án không triệu tập);
9) Phạm nhân: Nguyễn Văn L, sinh năm 1988; đang chấp hành án phạt tù tại Phân trại số 02, Trại giam Quảng Ninh, thuộc thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt, (Tòa án không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn H là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại Phân trại số 2, Trại giam Quảng Ninh, ở thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, về các tội “Giết người” và “Cướp tài sản”. Vào khoảng 13 giờ ngày 26/02/2022, anh Phạm Vĩnh N, cán bộ quản giáo của Phân trại số 2 trích xuất, dẫn giải H cùng một số phạm nhân khác đến khu lao động thuộc Đội 20 để sửa chữa máy nâng. Khoảng 10 phút sau, anh Nam và anh Trần Việt H (là cán bộ bảo vệ của Trại) tiến hành điểm danh, phân công công việc lao động cho từng phạm nhân, rồi cho H cùng các phạm nhân khác thay quần áo lao động tại khu vực thay quần áo, vệ sinh, tắm giặt của Đội 20. Sau khi thay quần áo xong, H đi ra khu vực nhà vệ sinh, tắm giặt, đóng cửa nhà vệ sinh lại, H quan sát thấy tường nhà vệ sinh thấp, ngay sát tường là bể nước, trong nhà vệ sinh, khi đóng cửa cán bộ quản giáo và cán bộ bảo vệ không quan sát được, nên H đã nảy sinh ý định bỏ trốn. H liền trèo lên thành bể nước, trèo qua bức tường nhà vệ sinh, rồi bỏ chạy lên đồi keo phía sau của Trại giam. Sau khi H bỏ trốn, thì Trại giam Quảng Ninh đã ra lệnh truy nã đối với H. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 28/02/2022, khi H đang lẩn trốn tại khu vực khai trường khai thác đá thuộc thôn Khe Khoai, xã Thống Nhất thì bị Công an xã Thống Nhất phát hiện, bắt giữ.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Bị cáo khai: Bị cáo thực hiện trốn khỏi Trại giam một mình, không ai biết và giúp sức cho bị cáo, mục đích bị cáo bỏ trốn là để về thăm gia đình. Quá trình trốn khỏi Trại giam, bị cáo không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật gì khác.
Giai đoạn điều tra, những người làm chứng là các ông Nguyễn Huy H, Phạm Vĩnh N và Trần Việt H là lãnh đạo và cán bộ của Phân trại số 02 - Trại giam Quảng Ninh trực tiếp quản lý phạm nhân khai: Bị cáo H là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại Phân trại, có hành vi trốn khỏi nơi giam vào ngày 26/02/2022. Sau khi sự việc xảy ra, Lãnh đạo Phân trại đã báo cáo kịp thời về Lãnh đạo Trại giam, khởi tố vụ án, quyết định truy nã, thông báo và phối vợp với các cơ quan chức năng để tiến hành truy bắt phạm nhân. Ngày 28/02/2022 đã bắt được phạm nhân H. Anh Nguyễn Tiến H - Trưởng Công an xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long khai: Sau khi nhận được tin báo, Công an xã Thống Nhất đã tổ chức truy tìm và đã trực tiếp bắt được phạm nhân, bàn giao cho Phân trại số 02 - Trại giam Quảng Ninh.
Hồ sơ vụ án còn có lời khai của các phạm nhân: Phạm Hoài N, Đỗ Mạnh C, Bùi Duy B, Đinh Ngọc T và Nguyễn Văn L khai báo mình được trích xuất cùng phạm nhân H ra khỏi buồng giam vào ngày 26/02/2022 để sửa chữa máy nâng, trong lúc thay quần áo để đi làm, phạm nhân H đã bỏ trốn.
Tại bản Cáo trạng số: 96/CT-VKSHL ngày 18 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trốn khỏi nơi giam” theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: khoản 1 Điều 386, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”.
- Áp dụng: khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự: Tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2012/HSST ngày 20/4/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa không nêu rõ thời hạn bị cáo chưa chấp hành hình phạt tù của bản án trước là bao nhiêu và không đề nghị thời điểm bị cáo phải chấp hành hình phạt tù chung cho cả hai bản án từ khi nào.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về Tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Về tư cách tham gia tố tụng trong vụ án: Các ông Nguyễn Huy H, Phạm Vĩnh N và Trần Việt H là cán bộ của Trại giam Quảng Ninh, chỉ liên quan đến trách nhiệm quản lý phạm nhân về mặt hành chính, không liên quan đến hành vi trốn khỏi nơi giam của bị cáo trong hình sự và tố tụng hình sự. Vì vậy, những người này chỉ tham gia tố tụng với tư cách là những người làm chứng, không phải là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
[2] Về tội phạm:
[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người làm chứng là các cán bộ trực tiếp quản lý phạm nhân (các ông Phạm Vĩnh N, Trần Việt H và Nguyễn Huy H) và các phạm nhân (Phạm Hoài N, Đỗ Mạnh C, Bùi Duy B, Đinh Ngọc T và Nguyễn Văn L) được trích xuất cùng bị cáo Hòa ra khỏi buồng giam để sửa chữa máy nâng khai báo: Sau khi được trích xuất ra khỏi buồng giam để sửa chữa máy nâng, lợi dụng trong lúc thay quần áo không có người trực tiếp theo dõi, bị cáo H đã bỏ trốn, phù hợp với sơ đồ, bản ảnh hiện trường, cùng những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 26/02/2022, tại khu lao động Đội 20, Phân trại số 2 - Trại giam Quảng Ninh ở thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn H là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù đã có hành vi trốn khỏi nơi giam. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 28/02/2022, H bị công an xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh phát hiện, bắt giữ.
[2.2] Khoản 1 Điều 386 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Người nào đang... chấp hành hình phạt tù mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[2.3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố bị cáo là có cơ sở pháp luật.
[2.4] Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến sự đúng đắn của hoạt động thi hành án hình sự, trật tự quản lý, kiểm soát phạm nhân của Nhà nước, gây ảnh hưởng lớn đến tâm lý cải tạo, giáo dục những phạm nhân khác tại cơ sở giam giữ, gây bất an trong nhân dân địa phương nơi có phạm nhân bỏ trốn. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh.
[2.5] Bị cáo là người đã bị kết án, đang chấp hành án phạt tù, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[2.6] Giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.
[3] Về hình phạt: Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, sau khi cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, cho bị cáo được hưởng mức án 15 tháng tù là tương xứng với tình chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, không những nhằm trừng trị mà còn để cải tạo, giáo dục bị cáo biết chấp hành đúng quy định của pháp luật, trật tự, kỷ cương của cơ sở giam giữ, răn đe với những phạm nhân khác và phòng ngừa chung cho xã hội, đáp ứng được mục đích của hình phạt.
[4] Về việc tổng hợp hình phạt: Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự: “Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này”. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2012/HSST ngày 20/4/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã xử phạt bị cáo 13 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2011. Bị cáo được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù 24 tháng. Ngày 06/10/2022 sẽ chấp hành xong hình phạt tù. Như vậy, tính tới ngày xét xử sơ thẩm và tuyên án (ngày 21/6/2022), thời gian bị cáo chưa chấp hành hình phạt tù còn lại của bản án trước: 03 tháng 15 ngày và 02 ngày bỏ trốn là 03 tháng 17 ngày tù. Tổng hợp hình phạt, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 18 tháng 17 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày xét xử và tuyên án sơ thẩm (ngày 21/6/2022).
[5] Về vật chứng: Cơ quan điều tra không thu giữ gì, Hội đồng xét xử không giải quyết.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 1 Điều 386, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 53 và khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 1 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021); điểm a khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”. Tổng hợp với phần hình phạt 03 (ba) tháng 17 (mười bẩy) ngày tù chưa chấp hành theo Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2012/HSST ngày 20/4/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 18 (mười tám) tháng 17 (mười bẩy) ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày xét xử và tuyên án sơ thẩm (ngày 21 tháng 6 năm 2022).
2. Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
3. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 109/2022/HS-ST về tội trốn khỏi nơi giam
Số hiệu: | 109/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về