Bản án về tội trốn khi đang bị áp giải số 30/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 30/2024/HS-ST NGÀY 11/07/2024 VỀ TỘI TRỐN KHI ĐANG BỊ ÁP GIẢI

Ngày 11 tháng 7 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng tiến hành mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2024; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2024/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2024 đối với:

- Bị cáo: Lâm Trường G (tên gọi khác: C), sinh ngày 20 tháng 02 năm 1987; Nơi sinh: tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: ấp T, xã Đ, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ văn hóa: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Con ông Lâm P, sinh năm 1957 và bà Giang Thi H, sinh năm 1953; Vợ: Không có (Nhưng có chung sống như vợ chồng với Trần Thị Đ, sinh năm 1990 và Nguyễn Thị Cẩm T, sinh năm 1992; con: 02 người (lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015); Tiền sự: không; có 02 tiền án: Ngày 21-4-2016, bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng tuyên xử 07 năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” và ngày 10-01-2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng tuyên xử 09 tháng tù về “Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tổng hợp với Bản án số 07/2016/HS-ST, ngày 21-4-2016 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, buộc Lâm Trường G chấp hành 07 năm 09 tháng tù (đã chấp hành xong án phạt tù ngày 02-10-2021, chưa được xóa án tích); Nhân thân: ngày 08/7/2022, bị Công an huyện M, tỉnh Sóc Trăng xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc (đã chấp hành xong ngày 14-7-2022, hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong vụ án khác kể từ ngày 09-11-2023 cho đến nay. (Có mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Phan Thanh D, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Ấp C, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

2. Ông Đặng Văn H1, sinh năm 2002; Nơi cư trú: Ấp K, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

3. Ông Lâm Minh T1, sinh năm 2003; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

4. Ông Nguyễn Đình T2, sinh năm 2001; Nơi cư trú: Ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

5. Ông Võ Hoàng D1, sinh năm 2001; Cùng nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

6. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 2002; nơi cư trú: Ấp T, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt, Có đơn xin xét xử vắng mặt).

7. Ông Thạch Minh G1, sinh năm 2003; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

8. Ông Danh Thanh Q, sinh năm 1987; nơi cư trú: ấp C, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

9. Ông Phùng Thanh H2, sinh năm 1991; nơi cư trú: Số B, đường Đ, Khóm A, Phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

10. Ông Nguyễn Đức T3 (Tâm H3), sinh năm 1992; ấp H, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lâm Trường G, sinh ngày 20-02-1987, nơi cư trú: ấp T, xã Đ, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là đối tượng đã có 02 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (đã chấp hành xong hình phạt, nhưng chưa được xóa án tích), đồng thời Lâm Trường G hiện đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Vì không muốn tiếp tục bị tạm giam để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy, nên Lâm Trường G đã có hành vi trốn khi đang bị áp giải, cụ thể như sau:

Thực hiện Quyết định điều chuyển người bị tạm giam số 422, 424/QĐ-CQQLTGTG(PC10), ngày 10-11-2023 của Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam Công an tỉnh S và Kế hoạch số 50/KH-HHTP, ngày 10-11-2023 của Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an huyện M, tỉnh Sóc Trăng về việc phân công lực lượng áp giải người bị tạm giam, cùng ngày Nhà tạm giữ Công an huyện M đã phân công 04 đồng chí do ông Phan Thanh D làm Tổ trưởng, tiến hành áp giải Lâm Trường G cùng 03 người bị tạm giam khác từ Nhà tạm giữ Công an huyện M đến Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng để tiếp tục tạm giam phục vụ cho công tác điều tra, cũng như để đảm bảo an toàn cho cơ sở giam giữ. Đến khoảng 16 giờ 45 phút ngày 10-11-2023, khi áp giải người bị tạm giam đến Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng thì các chiến sỹ áp giải mở cửa xe ô tô cho những người bị tạm giam xuống xe và dẫn các đối tượng lại ngồi trước khu vực Nhà tạm giữ Công an huyện C, tọa lạc tại ấp T, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Sau đó, đồng chí Phan Thanh D vào làm thủ tục bàn giao người bị tạm giam cho Nhà tạm giữ Công an huyện C, còn lại 03 chiến sỹ ở lại canh giữ các đối tượng tạm giam đang bị áp giải. Lúc này, khi đang ngồi chờ làm thủ tục bàn giao, thì người bị tạm giam Lâm Trường G thấy còng tay của mình bị lỏng và không ai để ý, nên đã tự ý tháo còng tay ra rồi đứng lên bỏ chạy được một đoạn khoảng 80m đến gần khu vực cổng chính trụ sở Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng thì bị các chiến sỹ nghĩa vụ Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng khống chế bắt giữ và bàn giao lại cho Tổ áp giải. Sau đó, đồng chí Phan Thanh D tiến hành lập biên bản về việc người bị tạm giam Lâm Trường G bỏ trốn và bàn giao cho Nhà tạm giữ Công an huyện C. Đến ngày 12-01-2024, ông Phan Thanh D đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C để tố giác Lâm Trường G về hành vi trốn khi đang bị áp giải.

Tại bản Cáo trạng số: 29/CT-VKS-CT ngày 22-5-2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Lâm Trường G về tội “Trốn khi đang bị áp giải” theo quy định tại khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Cáo trạng số: 29/CT-VKS-CT, ngày 22-5-2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng tuyên bố bị cáo Lâm Trường G phạm tội “Trốn khi đang bị áp giải” và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 386; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Lâm Trường T4 Giang từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong phần lời nói sau cùng bị cáo Lâm Trường G trình bày ý kiến xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay người làm chứng: Ông Nguyễn Văn B vắng mặt, có đơn xin vắng mặt; ông Phan Thanh D, ông Đặng Văn H1, ông Lâm Minh T1, ông Nguyễn Đình T2, ông Võ Hoàng D1, ông Thạch Minh G1, ông Danh Thanh Q, ông Phùng Thanh H2, ông Nguyễn Đức T3 vắng mặt không lý do. Xét thấy, những người làm chứng này được Tòa án triệu tập hợp lệ giấy triệu tập nhưng vắng mặt không lý do. Tuy nhiên, việc vắng mặt của các ông Nguyễn Văn B, ông Phan Thanh D, ông Đặng Văn H1, ông Lâm Minh T1, ông Nguyễn Đình T2, ông Võ Hoàng D1, ông Thạch Minh G1, ông Danh Thanh Q, ông Phùng Thanh H2, ông Nguyễn Đức T3 gây trở ngại đến việc xét xử và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không yêu cầu hoãn phiên tòa. Cho nên, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) xét xử vắng mặt những người nói trên.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lâm Trường G nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo. Xét lời thừa nhận tội của bị cáo G tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án. Do đó, Cáo trạng số 29/CT-VKS-CT ngày 22-5-2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Lâm Trường G về tội “Trốn khi đang bị áp giải” theo quy định tại khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Lâm Trường G là nguy hiểm cho xã hội; chỉ vì không muốn tiếp tục bị tạm giam để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy, nên ngày 11-10-2023, trong quá trình bị áp giải ngồi chờ làm thủ tục bàn giao cho Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng để tiếp tục tạm giam, lúc này lợi dụng còng tay bị lỏng và cán bộ áp giải không để ý, nên Lâm Trường G đã có hành vi tự ý tháo còng tay rồi bỏ chạy trốn được một đoạn khoảng 80m đến gần khu vực cổng chính trụ sở Công an huyện C, tỉnh Sóc Trăng thì bị các chiến sỹ nghĩa vụ thuộc Công an huyện C khống chế và bắt giữ. Cho nên, hành vi của bị cáo Lâm Trường T4 Giang có đủ yếu tố cấu thành tội “Trốn khi đang bị áp giải” theo quy định tại khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo Lâm Trường G là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ. Ngoài ra, hành vi phạm tội của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội là tái phạm đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, đối với bị cáo cần phải xử nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm cho toàn xã hội.

[6] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét cho bị cáo: Sau khi phạm tội và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc Khmer nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[7] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo Lâm Trường G là người bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 386; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lâm Trường G.

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021); điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Căn cứ vào các điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

- Tuyên bố bị cáo Lâm Trường G phạm tội “Trốn khi đang bị áp giải”.

1. Xử phạt bị cáo Lâm Trường G 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị bắt đi chấp hành án.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Lâm Trường G phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

3. Về quyền kháng cáo bản án: bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trốn khi đang bị áp giải số 30/2024/HS-ST

Số hiệu:30/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;