TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 113/2022/HS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP, TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân thị xã Đ mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 68/2022/TL-HSST ngày 15 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Thanh B, Sinh năm:1994, tại: huyện B, tỉnh Q; nơi cư trú: thôn L, xã B, huyện B, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; giới tính: nam; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: không; con ông không rõ và bà: Trương Thị C (sống); bị cáo có vợ tên Trần Đặng Phương T và 02 người con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017;
Tiền sự: không.
Tiền án: ngày 27/6/2019 bị Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đ xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.
Nhân thân: ngày 05/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện H, thành phố H áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 29/11/2017 chấp hành xong.
Ngày 20/7/2022, bị TAND quận L, thành phố Đ xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo đang chấp hành hình phạt tù trong vụ án khác, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Họ và tên: Nguyễn Minh Q; Sinh năm:1988, tại: huyện B, tỉnh Q; nơi cư trú: thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: lao động phổ thông; con ông: Nguyễn Minh V (sống) và bà: Nguyễn Thị L (sống);bị cáo chưa có vợ, con;
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
+ Người bị hại: bà Lê Thị B, sinh năm: 1971; địa chỉ: thôn T 1, xã Điện M, thị xã Đ, tỉnh Q (vắng mặt)
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Lương N1 sinh năm: 2005, địa chỉ: thôn T 1, xã Điện M, thị xã Đ, tỉnh Q (vắng mặt)
- Ông Ôn Văn N, sinh năm: 1990; địa chỉ: tổ 59, phường An Hải Bắc, quận S, thành phố Đ (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp cho ông Lương N1: bà Lê Thị B, sinh năm: 1971; địa chỉ: thôn T 1, xã Điện M, thị xã Đ, tỉnh Q (là mẹ ruột ông Lương N1) (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thanh B là đối tượng không có công ăn việc làm ổn định, để có tiền tiêu xài, B nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô của người khác bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 15 giờ ngày 07/02/2022, B mang theo một đoản phá khóa rồi đón xe khách đi từ thị trấn Hà Lam, huyện B, tỉnh Q ra thành phố Đ, khi xe đến khu vực trạm thu phí đường bộ thuộc thôn Viêm Tây 1, xã Điện Thắng Bắc, thị xã Đ, Q, B thấy phía trước quán cà phê S bên đường có nhiều xe mô tô đang dựng nên B xuống xe vào quán ngồi gọi nước uống và quan sát. Liền lúc đó, B phát hiện thấy anh Lương N1 chạy xe mô tô biển kiểm soát 92D1-xxxxx đến dựng trước quán rồi vào trong ngồi uống nước. B ngồi quan sát Lương N1 được một lúc thấy Lương N1 không để ý đến xe, B liền đi ra dùng đoản phá khóa, phá khóa lấy xe mô tô biển kiểm soát 92D1-xxxxx chạy về huyện B. Đến huyện B, B gọi điện cho Nguyễn Minh Q nói “có chiếc xe mô tô không giấy tờ, xe còn mới có mua không”, thì Q nói “mua” nên B chạy xe đến cho Q xem. Sau khi xem xe, Q biết rõ xe B đem đến bán là do trộm cắp mà có. Qua thỏa thuận Q đồng ý mua với giá là 3.000.000 đồng. Khi giao xe, B nói Q kiếm biển số xe khác thay vào khi sử dụng để tránh bị phát hiện. Sau đó, Q lấy biển kiểm soát xe có số 43E1-xxxxx mà Q đã nhặt được trước đó thay cho biển kiểm soát 92D1-xxxxx để làm phương tiện đi lại.
Bản kết luận định giá tài sản số 07/HĐ.ĐG ngày 03/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đ kết luận xe mô tô biển kiểm soát 92D1-xxxxx vào thời điểm tháng 2/2022 có giá trị là: 19.000.000đ (mười chín triệu đồng) Tại bản cáo trạng số 66/VKS-HS ngày 14/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS; truy tố bị cáo Nguyễn Minh Q về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX: đối với Nguyễn Thanh B, đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS; Đề nghị mức hình phạt từ 18-24 tháng tù. Đề nghị áp dụng Điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt 03 năm 06 tháng tại Bản án số 54/2022/HSST ngày 20/7/2022 của TAND quận L buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án. Đối với Nguyễn Minh Q: đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 323; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 BLHS; Đề nghị mức hình phạt: từ 6- 9 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.
Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu, tiêu hủy biển kiểm soát 43E1-xxxxx Đề nghị buộc bị cáo Nguyễn Thanh B nộp số tiền 3.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước.
Bị cáo Nguyễn Minh Q nói lời nói sau cùng: mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án:
Khoảng 15 giờ ngày 07/02/2022, tại quán cà phê S thuộc xã Điện Thắng Bắc, thị xã Đ, tỉnh Q, Nguyễn Thanh B đã có hành vi lén lút dùng đoản phá khóa để trộm cắp 01 xe mô tô Yamaha Sirius biển kiểm soát 92D1-xxxxx cuả người bị hại có giá trị theo kết quả định giá là 19.000.000 đồng, sau đó đem xe bán cho Nguyễn Minh Q với giá 3.000.000 đồng.
Nguyễn Minh Q mặc dù biết rõ xe mô tô trên do Nguyễn Thanh B trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua. Đồng thời, Nguyễn Minh Q đã có hành vi che giấu bằng cách tháo biển kiểm soát 92D1-xxxxx và thay vào biển kiểm soát 43E1- xxxxx nhằm mục đích che giấu để đi lại tránh bị phát hiện.
Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đối chiếu với tang vật vụ án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS, bị cáo Nguyễn Minh Q phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 BLHS.
[3] Xét hành vi, tính chất tác hại, hậu quả của vụ án thì thấy: Các bị cáo là những thanh niên trưởng thành, có sức khỏe nhưng không lo làm ăn lại có tính tham lam nên đã vi phạm pháp luật; Lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, bị cáo B đã lén lút trộm cắp tài sản có giá trị tổng cộng 19.000.000đ. Bị cáo Q vì hám lợi nên dù biết tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn mua về sử dụng. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, khách thể được pháp luật bảo vệ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần xét xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi vụ án phát hiện, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Q phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo B đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm” theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS. Ngoài ra, bị cáo B có nhân thân xấu, năm 2016 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và ngoài lần phạm tội này, bị cáo còn bị Tòa án quận L xét xử về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Điều đó chứng tỏ bị cáo là người liều lĩnh, coi thường pháp luật nên HĐXX quyết định xử bị cáo hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo.
Đối với Nguyễn Minh Q có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết xử phạt tù giam đối với bị cáo mà áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 biển kiểm soát 43E1-xxxxx là của xe mô tô nhãn hiệu Vario150, số máy KF11E1827380, số khung MH1KF1118GK829296 do anh Ôn Văn N làm chủ sở hữu. Vào khoảng đầu năm 2019, anh Nhựt trong quá trình di chuyển về quê tại xã B Trị, huyện B, tỉnh Q đã làm rớt mất biển kiểm soát 43E1-xxxxx khỏi xe mô tô. Sau khi tìm lại không được biển số, anh Nhựt đã đến Công an quận S để trình báo theo quy định và đã nhận lại biển số mới. Do vậy, biển kiểm soát 43E1-xxxxx không còn giá trị nên tịch thu, tiêu hủy biển kiểm soát 43E1-xxxxx là phù hợp.
Bị cáo Nguyễn Thanh B đã thu lợi số tiền 3.000.000đ nên buộc bị cáo phải nộp lại để sung công quỹ nhà nước.
[7] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Nguyễn Minh Q phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”
Áp dụng : Khoản 1 Điều 173, Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Áp dụng Điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt 03 năm 06 tháng tù tại Bản án số 54/2022/HSST ngày 20/7/2022 của TAND quận L, thành phố Đà nẵng buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 05 (năm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam theo Bản án số 54/2022/HSST ngày 20/7/2022 của TAND quận L, thành phố Đ (ngày 10/02/2022).
Áp dụng : Khoản 1 Điều 323; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh Q 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/9/2022).
Giao bị cáo Nguyễn Minh Q cho UBND xã B, huyện B, tỉnh Q giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
- Áp dụng Điều 47 BLHS 2015; Điều 106 BLTTHS 2015 Buộc bị cáo Nguyễn Thanh B phải nộp số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng) để sung công quỹ nhà nước.
Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 BKS 43E1-xxxxx (Vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đ, theo Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 25/7/2022 giữa Công an thị xã Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đ).
Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS và Luật phí, lệ phí.
Các bị cáo Nguyễn Thanh B và Nguyễn Minh Q phải chịu mỗi bị cáo 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án.
Bản án 113/2022/HS-ST về tội trộm cắp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 113/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về