TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 100/2020/HSST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 24/6/2020 tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 117/2020/TLST- HS, ngày 29/5/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2020/QĐXXST-HS ngày 11/6/2020 đối với các bị cáo:
Viêng Thị Thu H (tức Viêng Thị H), sinh năm 1995; nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện Tương D1, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Viêng Văn P, sinh năm 1972 và bà Vi Thị B, sinh năm 1965; chồng, con: chưa có;
Tiền án, tiền sự: không;
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/01/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
Bị hại:
1. Trần Thị Thùy D, sinh năm 1980; HKTT: thôn N, xã T, huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Nơi ở: Số 13, đường N, phường Đ, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; có mặt mặt.
2. Lô Thị Thùy D1, sinh năm 1995; nơi cư trú: xã T, huyện T, tỉnh N; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 07/01/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh nhận được đơn trình báo của chị Trần Thị Thùy D, sinh năm 1980, ở số 13 đường N, phường Đ, thành phố Bắc Ninh về việc ngày 02/01/2020 chị bị mất trộm số tiền 27.000.000 đồng.
Sau khi nhận được đơn trình báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã tiến hành điều tra, qua quá trình điều tra, ngày 07/01/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh tiếp nhận 01 đối tượng tên là Viêng Thị Thu H, sinh năm 1995, HKTT: Bản C, xã T, huyện Tương D1, tỉnh Nghệ An đến đầu thú và H tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại di động Iphone X cho Cơ quan điều tra để trả lại chị D, mục đích khắc phục một phần hậu quả.
H khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như sau:
Khoảng 21 giờ ngày 02/01/2020, Viêng Thị Thu H, đi bộ đến cửa hàng quần áo của chị Trần Thị Thùy D, để mua quần áo. H bảo chị D tìm để H thử một số bộ quần áo. Chị D đi ra khu vực trước cửa hàng để lấy quần áo theo yêu cầu của H. Lúc này H đang đứng trong cửa hàng, H phát hiện thấy trên mặt bàn trong cửa hàng có 01 chiếc túi xách, nắp túi xách không khóa. H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bên trong túi xách. Lợi dụng trong cửa hàng không có ai, H dùng tay trái mở nắp túi xách, thò tay vào trộm cắp được số tiền 27.000.000 đồng gồm các tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 200.000 đồng, 100.000 đồng (H không nhớ chính xác số lượng mệnh giá mỗi loại tiền). Sau đó H mua của chị D 01 bộ quần áo hết 980.000 đồng, H đưa trả chị D 1.500.000 đồng (trong đó có 700.000 đồng tiền của H và số tiền 800.000 đồng tiền H vừa trộm cắp được của chị D). Số tiền 520.000 đồng còn thừa chị D chưa trả lại H nên H hẹn chị D ngày hôm sau sẽ đến mua quần áo tiếp. Sau đó H dùng số tiền trộm cắp được mua 01 chiếc điện thoại di động Iphone X hết 12.500.000 đồng, còn lại H đã chi tiêu cá nhân hết.
Việc thu giữ, tạm giữ vật chứng đảm bảo đảm quy định pháp luật.
Ngày 20/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã trả chiếc điện thoại di động Iphone X do H giao nộp khắc phục hậu quả cho chị D và chị D đồng ý nhận chiếc điên thoại nói trên.
Đến nay chị D đã nhận chiếc điện thoại di động Iphone X và khấu trừ số tiền 520.000 đồng chưa trả lại cho H. Chị D xác nhận khấu trừ tổng số tiền cho H là 13.000.000 đồng, chị D yêu cầu H phải bồi thường số tiền còn lại cho chị là 14.000.000 đồng.
Ngày 16/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh còn tiếp nhận một đơn tố cáo của chị Lô Thị Thùy D1, sinh năm 1995, HKTT: xã T, huyện T, tỉnh N tố cáo về việc chị D1 bị Viêng Thị Thu H chiếm đoạt chiếc xe Piasggio Zip màu đỏ, BKS: 37D1-100.19 của chị Ngoài lần “Trộm cắp tài sản” nói trên H còn có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác như sau:
Từ khoảng tháng 01/2019, chị D1 và H cùng thuê trọ tại một nhà trọ tại khu Chu Mẫu, phường Vân D1, thành phố Bắc Ninh. Ngày 02/3/2019, chị D1 về quê ở Nghệ An, để lại chiếc xe và chìa khóa xe Piasggio Zip màu đỏ, BKS: 37D1 - 100.19 của chị cho H mượn làm phương tiện đi lại. Khoảng 10 ngày sau, do không có tiền chi tiêu cá nhân nên H đã mang chiếc xe của chị D1 đến cửa hàng của anh Bùi Đăng Đức Anh, sinh năm 1977, ở thôn Do Nha, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh hỏi vay anh Đức Anh số tiền 5.000.000 đồng, H tự nguyện để lại chiếc xe của chị D1 lại cho anh Đức Anh để làm tin. H nói với anh Đức Anh đây là xe của H. Do tin tưởng nên anh đồng ý cho H vay số tiền 5.000.000 đồng. Số tiền trên H đã chi tiêu cá nhân hết. Khoảng 02 tuần sau chị D1 về phòng trọ thì không thấy H cùng chiếc xe của chị D1. Chị D1 gọi điện thoại cho H thì H nói dối chị D1 là H có việc về quê ở Nghệ An, do sợ mất xe nên gửi xe của chị D1 ở nhà một người bạn tại thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sau đó chị D1 chiều lần gọi điện thoại cho H yêu cầu H trả xe nhưng H nói dối là đi có việc, xe bị Công an giữ… Đến ngày 27/6/2019, chị D1 gặp H tại khu nhà trọ tại khu Chu Mẫu, phường Vân D1, thành phố Bắc Ninh tìm và gặp được H. Chị D1 yêu cầu H trả xe, H nói dối là xe của chị D1 hiện H đang để trong nhà xe của khu nhà trọ, sáng hôm sau H sẽ lấy xe trả chị D1. Chị D1 đồng ý. Sau đó chị D1 và H cùng ngủ tại phòng trọ. Rạng sáng ngày 28/6/2019, lợi dụng lúc chị D1 đang ngủ, H đã bỏ trốn khỏi phòng trọ. Sau đó H bỏ đi lang thang, không quay lại phòng trọ, tắt điện thoại để chị D1 không liên lạc được, trốn tránh việc trả xe cho chị D1.
Ngày 25/3/2020, anh Bùi Đăng Đức Anh sau khi được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh thông báo chiếc xe mô tô Piasggio Zip màu đỏ, BKS: 37D1 - 100.19 là vật chứng liên quan đến vụ án nên anh Đức Anh đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra phục vụ công tác điều tra.
Ngày 01/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã gửi yêu cầu định giá tài sản chiếc xe mô tô Piasggio Zip màu đỏ, BKS:
37D1 - 100.19.
Tại bản kết luận định giá số 57/KL-HĐ ngày 01/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Bắc Ninh kết luận : Chiếc xe mô tô Piasggio Zip màu đỏ, BKS: 37D1 - 100.19 đã qua sử dụng trị giá 8.500.000 đồng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã thu giữ, tạm giữ vật chứng đúng quy định của pháp luật.
Ngày 20/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đã trả lại chiếc xe nêu trên cho chị D1. Chị D1 đã nhận lại tài sản đầy đủ, không yêu cầu H phải bồi thường gì khác.
Anh Đức Anh không yêu cầu H phải trải lại số tiền 5.000.000 đồng H vay của anh.
Với nội D vụ án như trên bản Cáo trạng số 100/CT-VKSTPBN, ngày 29/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố Viêng Thị Thu H về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng.
Bị hại, chị Trần Thị Thùy D trình bày: chị ghi nhận các nội D, diễn biến của vụ án bị cáo trộm cắp tài sản của chị như cáo trạng và bị cáo trình bày ở trên là đúng. Chị xác nhận tổng số tiền bị cáp đã trả được chị khấu từ thiệt hại là 13.000.000đ nay còn là 14.000.000đ và chị yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại là 14.000.000đ. Tại phiên tòa chị D xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo.
Cũng tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố Bắc Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội "Trộm cắp tài sản" và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm a khoản 1 Điều 175 điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và từ 10 đến 12 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Hình phạt cho cả 02 tội là từ 22 đến 27 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: chị D là người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 14.000.000đ (là số tiền trị giá tài sản còn lại mà bị cáo đã trộm cắp nhưng chưa trả hết).
Bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh mà nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo, của người bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với không gian, thời gian và lời trình bày của bị hại, tang vật đã thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng giữa tháng 3/2019 Viêng Thị Thu H sau khi mượn được chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piasggio Zip màu đỏ, BKS: 37D1 - 100.19 của chị Lô Thị Thùy D1, do cần tiền chi tiêu cá nhân nên H đã mang chiếc xe mô tô trên đặt làm tin để vay của anh Bùi Đăng Đức Anh số tiền 5.000.000 đồng. Sau đó H bỏ trốn, không có khả năng lấy lại xe để trả chị D1.
Số tiền 5.000.000 đồng H đã chi tiêu cá nhân hết. Trị giá chiếc xe là 8.500.000 đồng. Khoảng 21 giờ ngày 02/01/2020, tại số 13 đường N, phường Đ, thành phố Bắc Ninh, Viêng Thị Thu H đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 27.000.000 đồng của chị Trần Thị Thùy D nhằm mục đích chi tiêu cá nhân. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 và tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố theo Cáo trạng nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố. Bởi vậy, cần phải đưa ra xét xử kịp thời và áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: bị cáo H sau khi phạm tội đã ra Cơ quan điều tra đầu thú; tự nguyện khắc phục một phần hậu quả; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; bị hại có đơn xin đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nên cũng cần xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh là phù hợp. Hội đồng xét xử thấy: Cần xét xử bị cáo mức hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.
Về trách nhiệm dân sự: Chị D là người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 14.000.000đ là số tiền trị giá tài sản còn lại bị cáo chưa bồi thường nên buộc bị cáo phải trả chị D 14.000.000đ.
Anh Đức Anh không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 5.000.000đ bị cáo đã vay nên không đề cập giải quyết.
Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Viêng Thị Thu H phạm tội "Trộm cắp tài sản" và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
- Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48; Điều 55 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 468; Điều 584; Điều 589 Bộ luật Dân sự. Điều 136; Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:
Xử phạt Xử phạt bị cáo Viêng Thị Thu H 14 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 10 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt cho cả 02 tội là 24 (hai tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 07/01/2020. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Buộc bị cáo Viêng Thị Thu H phải bồi thường cho chị Trần Thị Thùy D số tiền 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người thi hành án không tự nguyện thi hành thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự; Nếu không có thỏa thuận thì được thực hiện theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 700.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./
Bản án về tội trộm cắp tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 100/2020/HSST
Số hiệu: | 100/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về