Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe) số 54/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 54/2020/HS-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Thái T (Tên gọi khác: Huỳnh Thế T), sinh ngày 09/3/2001 tại Cà Mau. Nơi cư trú: Ấp 2B, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không có nghề nghiệp ổn định; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Hùng C và bà Phan Thị D; chưa có vợ; tiền án: Không; tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 09/3/2017 bị Công an xã Khánh Bình Đông xử phạt cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định số 30/QĐ-XPHC. Ngày 26/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 08/2018/HSST chấp hành xong ngày 15/5/2018, chấp hành xong án phí ngày 28/11/2018. Ngày 18/3/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Xảy ra ngày 15/01/2020) theo bản án số 11/2020/HS-ST chấp hành xong hình phạt ngày 16/7/2020; Ngày 27/5/2020 bị công an huyện Trần Văn Thời xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định số 451/QĐ- XPHC; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/7/2020 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1990 (Có mặt) Địa chỉ: Ấp 2, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ kiên quan:

1. Ông Trần Văn B, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 12B, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

2. Ông Nguyễn Hiếu D, sinh năm 1996 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp R, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

3. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1973 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp R, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 04 tháng 01 năm 2020, Huỳnh Thái T đi chơi về ngang nhà Nguyễn Văn M ở ấp 2, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời, Trân nhìn thấy trong hành lang nhà của M có đậu 01 chiếc xe mô tô hiệu ESPERO, màu xanh trắng, biển số 69AM-X. Thấy xe không có người trông coi, T nảy sinh ý định lấy trộm, đi vào chỗ đậu xe, dẫn xe ra lộ, do còn chìa khóa trên xe nên T đề xe chạy đi, T chạy đến thành phố Cà Mau tìm nơi tiêu thụ xe vừa trộm được.

Đến khoảng 06 giờ 00 phút ngày 05/01/2020, tại thành phố Cà Mau, T gặp một người thanh niên (Không xác định được lai lịch). T kêu người thanh niên này bán xe với giá 300.000đồng, T giao xe, nhận tiền rồi điều khiển xe chạy đi.

Tại bản kết luận định giá về tài sản số 11/BBKL ngày 21/02/2020 của Hội đồng định giá huyện Trần Văn Thời kết luận 01 chiếc xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu ESPERO loại 50, màu xanh trắng biển số 69AM-X có giá trị 2.500.000đồng.

Tài sản bị chiếm đoạt không thu hồi được, Bị hại Nguyễn Văn M yêu cầu bị cáo Huỳnh Thái T bồi thường giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.500.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 52/CT-VKS ngày 02 tháng 6 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau truy tố Huỳnh Thái T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo Huỳnh Thái T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Xử phạt bị cáo Huỳnh Thái T từ 06 đến 09 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự áp dụng Điều 589 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 2.500.000đồng.

Tại phiên tòa, Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội theo nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo không tranh luận với luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 2.500.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Qúa trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.

[2] Đối với anh Trần Văn B, anh Nguyễn Hiếu D, ông Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy việc vắng mặt của các đương sự không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án nên căn cứ quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên theo luật định.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Thái T khai nhận: Huỳnh Thái T lợi dụng sự bất cẩn trong quản lý tài sản của bị hại Nguyễn Văn M, lén lúc lấy trộm tài sản của bị hại. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ. Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có trị giá 2.500.000đồng. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

[4] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách bất hợp pháp, vi phạm pháp luật hình sự. Bị cáo có ý thức xem thường pháp luật cũng như muốn hưởng lợi trên sức lao động của người khác. Do đó, cần áp dụng cho bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi bị cáo gây ra mới đảm bảo tính răn đe, trừng trị của pháp luật, đồng thời có thời gian giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tốt, có ích và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu, bị cáo nhiều lần trộm cắp tài sản của người khác bị xử lý theo quy định của pháp luật nhưng bị cáo không có ý thức sửa chữa sau khi vi phạm. Do đó, cần xử lý thật nghiêm đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Như vậy, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Huỳnh Thái T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Thái T từ 06 đến 09 tháng tù là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Văn M yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 2.500.000đồng là giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt, bị cáo cũng đồng ý với yêu cầu của bị hại, do đó cần buộc bị cáo bồi thường theo yêu cầu của bị hại là phù hợp.

[7] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Huỳnh Thái T phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thái T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt bị cáo Huỳnh Thái T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 17/7/2020.

Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng điều 589 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Huỳnh Thái T bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn M số tiền 2.500.000đồng (Hai triệu năm trăm ngàn đồng) Kể từ ngày ông Nguyễn Văn M có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng Huỳnh Thái T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Huỳnh Thái T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Huỳnh Thái T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, người có mặt tính kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe) số 54/2020/HS-ST

Số hiệu:54/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;