Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm hai triệu ba trăm nghìn đồng) số 62/2022HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 62/2022HS-ST NGÀY 01/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa 85/2022/QĐST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Đình H - sinh ngày 09 tháng 4 năm 1989 tại xã Kh H, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An. Tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: xóm H Th, xã Kh H, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: mù chữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông Nguyễn Đình H và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: không có; Tiền sự: không;

Tiền án: ngày 27/4/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã thi hành án xong, ra trại ngày 11/8/2020);

Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2021/HSST ngày 15/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù, về tội: "Trộm cắp tài sản".

Nhân thân: ngày 21/7/2011 bị Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An ra Quyết định đưa đi cơ sở giáo dục thời hạn 15 tháng; ngày 13/12/2013 bị Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An ra Quyết định đưa đi cơ sở giáo dục bắt buộc với thời hạn 24 tháng; ngày 28/4/2016 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17 tháng 01 năm 2022 đến ngày 16 tháng 4 năm 2022 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Nguyễn Thị L - sinh năm 1962 (là mẹ đẻ); trú tại xóm H Th, xã Kh H, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Văn L, sinh năm 1984, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà Nước tỉnh Nghệ An.

Địa chỉ: Số 56, đường Ng Th M Kh, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1988; trú tại khối 2, phường V T, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 17 tháng 01 năm 2022, Nguyễn Đình H đi bộ từ nhà mình ở xóm H Th, xã Kh H, huyện Ng L đến khu vực chợ C X thuộc xóm H T, xã Kh H, huyện Ng L với mục đích nếu phát hiện có người sơ hở thì sẽ lấy trộm tài sản. Khi đến nơi, H thấy có một chiếc xe ô tô tải biển kiểm soát 18C-079.52 đang đỗ trước cổng chợ, phía sau thùng xe có vợ chồng chị Nguyễn Thị H đang dọn hàng để bán. Phát hiện cửa ca bin xe ô tô không khóa mà chỉ khép nên H liền mở cửa xe lấy trộm 01 chiếc túi xách màu đen, bên trong có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu hồng và số tiền 1.500.000 đồng của chị H. Sau khi lấy trộm được tài sản, H mang chiếc điện thoại đến bán cho anh Nguyễn Văn D (Sinh năm 1987, trú tại xóm H L, xã Kh H, huyện Ng L) được số tiền 200.000 đồng và lấy 850.000 đồng trong số tiền 1.500.000 đồng vừa trộm được tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật nên H đã chuộc lại chiếc điện thoại của chị H. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Đình H đã đến Công an huyện Nghi Lộc để đầu thú, giao nộp lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu hồng, số tiền 650.000 đồng còn lại để trả lại cho người bị hại và khai nhận hành vi phạm tội.

Quá trình điều tra, nghi ngờ H bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với H.

Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần theo yêu cầu số 06/KLGĐ ngày 28/4/2022 của Phân viện Pháp y tâm thần Bắc miền Trung thuộc Viện Pháp y tâm thần trung ương – Bộ Y tế, phản ánh: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 17/01/2022 và tại thời điểm giám định, bị cáo Nguyễn Đình H bị bệnh: Chậm phát triển tâm thần vừa có tật chứng về hành vi tác phong, theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD 10) năm 1992, có mã bệnh là: F71.1.

- Tại các thời điểm nêu trên, bị cáo Nguyễn Đình H hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi".

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 06/KL.ĐG ngày 28/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Nghi Lộc kết luận: “ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu hồng có giá trị 750.000 đồng; 01 (Một) chiếc túi xách có quai đeo bằng vải, màu đen, nhãn hiệu thủ đô vàng có giá trị 50.000 đồng.

Quá trình điều tra chị Nguyễn Thị H yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền còn thiếu là 850.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKS-NL ngày 26/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo tự khai nhận về hành vi phạm tội, biết ăn năn hối lỗi và xác nhận việc bán chiếc điện thoại trộm được cho anh D là 200.000 đồng và khi bán bị cáo không nói cho anh D biết là chiếc điện thoại do bị cáo trộm cắp mà có. Bị cáo thấy rất ân hận nên đã chuộc điện thoại để trả lại cho bị hại. Còn số tiền mặt bị cáo đã tiêu hết 850.000 đồng.

Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và không nói lời nói sau cùng.

- Người bào chữa của bị cáo thừa nhận nội dung truy tố của Viện kiểm sát là đúng quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng mức án với mức thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

- Bị hại vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt và không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử đề nghị: giữ nguyên việc truy tố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị áp dụng điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo H từ 12 tháng đến 15 tháng tù; buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

- Trong quá trình điều tra: Điều tra viên được phân công điều tra đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng về việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lập hồ sơ vụ án; hỏi cung bị can; xử lý vật chứng; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn.

- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Kiểm sát viên đã thực hiện nghiêm túc hoạt động kiểm sát điều tra; tham gia phiên tòa đúng thời gian, địa điểm; công bố bản cáo trạng; tham gia xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đồng thời thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cũng như người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử.

Do các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự nên hợp pháp và được sử dụng làm chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung:

Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 17 tháng 01 năm 2022, tại khu vực chợ C X thuộc xóm H T, xã Kh H, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An. Lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, Nguyễn Đình H đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 (Một) chiếc túi xách màu đen, bên trong có 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu hồng và số tiền mặt 1.500.000 đồng của chị Nguyễn Thị H đang để trên ca bin xe ô tô. Tổng trị giá tài sản mà Nguyễn Đình H chiếm đoạt là 2.300.000 đồng (Hai triệu, ba trăm nghìn đồng). Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại khoản 1 điều 173 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất vụ án: Hành vi của các bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm không lớn cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an nơi thôn xóm. Mặc dù bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi song bị cáo biết hành vi của mình là phạm pháp, đã bị xét xử nhiều lần mà vẫn tiếp tục thực hiện. Quá trình xét xử, mặc dù đã được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, các văn bản tố tụng khác nhưng bị cáo vẫn cố tình trốn tránh, gây trở ngại và Hội đồng xét xử đã phải ra Quyết định áp giải. Điều này đã thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật nên cần phải lên một mức án tương xứng và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, răn đe, phòng ngừa tái phạm.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội gây thiệt hại không lớn; là người hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; sau khi phạm tội đã đầu thú và tự nguyện giao nộp giao nộp tài sản bị cáo đã chiếm đoạt để trả lại cho bị hại (là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự) nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về dân sự: Số tiền 850.000 đồng bị hại không yêu cầu bị cáo phải trả lại 12nên không xem xét.

Về vật chứng: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu hồng; 01 (Một) chiếc túi xách có quai đeo bằng vải, màu đen, nhãn hiệu thủ đô vàng; số tiền 650.000 đồng - do Nguyễn Đình H giao nộp lại, Cơ quan điều tra đã thu hồi, trả lại cho chị Nguyễn Thị H; Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm h, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình H phạm tội “Trộm cắp tài sản".

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình H 01 (Một năm) tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2022 đến ngày 16/4/2022.

- Về án phí: áp dụng Điều 136, khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Đình H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bào chữa có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm hai triệu ba trăm nghìn đồng) số 62/2022HS-ST

Số hiệu:62/2022HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;