Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm điện thoại) số 57/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LỮ, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 57/2023/HS-ST NGÀY 01/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2023/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Phan Tư D, sinh năm 1987 tại thị trấn TC, huyện PC, tỉnh Hưng Yên; Trú tại: Thôn CX, thị trấn TC, huyện PC, tỉnh Hưng Yên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Con ông Phan Văn Đ và bà Nguyễn Thị Ng; có vợ là Phạm Thị Huyền Tr và 03 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án: Không; Tiền sự 01: Ngày 05/7/2023 bị Công an thị trấn Trần Cao, huyện Phù Cừ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo chưa chấp hành; Về nhân thân: Ngày 15/4/2011, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử phúc thẩm xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã chấp hành xong ngày 10/8/2011; Ngày 24/7/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã chấp hành xong ngày 31/3/2013; Ngày 24/12/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản chấp hành xong ngày 31/3/2018; Ngày 27/6/2020, bị Ủy ban nhân dân thị trấn Trần Cao, huyện Phù Cừ áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn là 03 tháng; Ngày 22/9/2020, bị Công an huyện Phù Cừ xử phạt phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chấp hành xong ngày 30/9/2020; Ngày 19/11/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản chấp hành xong ngày 31/5/2021; Bị bắt tạm giam từ ngày 10/8/2023 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên “có mặt tại phiên tòa”

Bị hại:- Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1995“vắng mặt” - Chị Bùi Thị Tuyết N, sinh năm 1995“vắng mặt”

Đều có địa chỉ: Thôn CH, xã TD, huyện TL, tỉnh Hưng Yên - Anh Vũ Đình A, sinh năm 1992“vắng mặt”

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Tiến P, sinh năm 1968“vắng mặt”

- Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1970“vắng mặt”

- Chị Lý Thị H, sinh năm 1992“vắng mặt”

- Chị Vũ Thị N1, sinh năm 1997“vắng mặt”

Đều có địa chỉ: Thôn AT, xã TD, huyện TL, tỉnh Hưng Yên - Anh Trần Kim T, sinh năm 1987“vắng mặt”

 - Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1959“ vắng mặt”

Người làm chứng: Chị Phạm Thị Huyền Tr, sinh năm 1990“có mặt”

Đều có địa chỉ: Thôn CX, thị trấn TC, huyện PC, tỉnh Hưng Yên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Tư D là đối tượng nghiện ma túy nên nẩy sinh ý định đi trộm cắp tài sản lấy tiền mua ma túy sử dụng. Khoảng 00 giờ ngày 05/8/2023, bị cáo điều khiển xe máy nhãn hiệu Detech classic màu trắng không gắn biển số, mang theo đèn pin đi tìm nhà nào sơ hở thì vào trộm cắp. Khi đi đến cổng nhà anh Nguyễn Văn Đ ở thôn CH, xã TD, huyện TL thấy cổng khóa nhưng cửa ra vào mở, bị cáo dựng xe cách cổng khoảng 10m rồi trèo tường đi vào phòng khách bật đèn pin soi thấy ông Nguyễn Tiến P là bố đẻ anh Đ đang ngủ có 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 để ở đầu giường, bị cáo lấy chiếc điện thoại cho vào túi quần rồi tiếp tục đi vào phòng ngủ thấy bà Nguyễn Thị K là mẹ đẻ anh Đ đang ngủ, phía cuối giường để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Vsmart Joy 3 và trên mặt tủ nhựa cạnh giường để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s, bị cáo lấy 02 chiếc điện thoại rồi trèo tường ra ngoài.

Sau khi trộm cắp tài sản nhà anh Đ, bị cáo tiếp tục điều khiển xe máy đi đến nhà anh Vũ Đình A ở thôn AT, xã TD, huyện TL. Quan sát thấy nhà không có cổng, cửa nhà không đóng bị cáo dựng xe cách nhà khoảng 30m rồi lén lút đi vào buồng ngủ thấy chị Lý Thị H vợ anh A đang ngủ, trên mặt bàn cạnh giường để 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A01 bị cáo lấy cho vào túi quần. Bị cáo đi ra phòng khách thấy anh A đang nằm ngủ để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Oppo A7 ở đầu giường liền lấy chiếc điện thoại. Bị cáo đi ra sân, sang gian nhà bên cạnh thấy trên đệm gần cửa ra vào có 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Realme 9i lấy bỏ vào túi quần rồi đi ra điều khiển xe được khoảng 100m thì bị anh A đi xe máy đuổi theo chặn lại hỏi “mày vừa vào nhà tao à” thì bị cáo nói “anh bị làm sao thế” rồi điều khiển xe bỏ chạy anh A phóng xe đuổi theo nhưng không kịp, bị cáo đã chạy thoát. Trên đường đi, kiểm tra 06 chiếc điện thoại vừa trộm cắp thấy chiếc điện thoại Nokia 105 không giá trị nên bị cáo ném xuống sông, 05 chiếc điện thoại còn lại mang về nhà cất giấu. Sáng ngày 05/8/2023 và 06/8/2023, bị cáo mang 03 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung A01, Vsmart Joy 3, Realme 9i bán cho anh Trần Kim T ở thị trấn TC, huyện PC được tổng số tiền 2.500.000đ. Đến ngày 09/8/2023 khi Công an huyện Tiên Lữ triệu tập đến làm việc bị cáo đã tự nguyện giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s và 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A7. Cùng ngày, anh T đã giao nộp cho Cơ quan điều tra 03 chiếc điện thoại đã mua của bị cáo.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phan Tư D ở thôn CX, thị trấn TC, huyện PC Cơ quan điều tra đã thu giữ được 01 xe máy nhãn hiệu Detech classic dạng xe Cup không gắn biển số, 01 đèn pin màu xanh đen, 01 quần soóc màu ghi, 01 áo phông màu đen đỏ, 01 đôi giày nhãn hiệu Bitis hunter màu xanh trắng bị cáo mặc khi đi trộm cắp.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 70/KL-HĐĐGTS ngày 10/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Lữ kết luận: Giá trị của chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung A01, màu xanh, đã qua sử dụng là 850.000 đồng; Giá trị của chiếc điện thoại nhãn hiệu Realme 9i màu đen bóng, đã qua sử dụng là 1.500.000 đồng; Giá trị của chiếc điện thoại nhãn hiệu Vsmart Joy 3 màu đen, đã qua sử dụng là 850.000 đồng; Giá trị của 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s màu gold, đã qua sử dụng là 1.000.000 đồng; Giá trị của 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Oppo A7 màu xanh, đã qua sử dụng là 1.000.000 đồng; Giá trị của 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, đã qua sử dụng là 200.000 đồng. Tổng giá trị 06 chiếc điện thoại bị cáo trộm cắp là 5.400.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lữ đã thu giữ 01 thẻ nhớ bên trong lưu trữ 06 file video ghi lại diễn biến việc bị cáo đến cửa hàng điện thoại của anh Trần Kim T bán 03 chiếc điện thoại trộm cắp. Tại bản kết luận giám định số 184/KL-KTHS(KTS) ngày 04/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Không phát hiện thấy dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong 06 file video trích xuất từ thẻ nhớ gửi giám định.

Việc anh Trần Kim T mua 03 chiếc điện thoại do bị cáo trộm cắp nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý.

Bà Nguyễn Thị Ng cho bị cáo mượn chiếc xe máy nhãn hiệu Detech classic để đi lại, không biết sử dụng vào việc đi trộm cắp tài sản nên không xem xét xử lý.

Về thu giữ vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ, quản lý của Phan Tư D 01 xe máy dạng xe Cup nhãn hiệu Detech classic không gắn biển số, số khung: RPECCBIUMGA018477, số máy: VDEJQ139FMB018477;

01 đèn pin màu xanh đen; 01 quần soóc màu ghi; 01 áo phông màu đen đỏ; 01 đôi giày hãng Bitishunter màu trắng xám xanh; 01 điện thoại Iphone 6s màu vàng và 01 điện thoại Oppo A7 màu xanh đen đều đã qua sử dụng. Thu giữ, quản lý của anh Trần Kim T: 01 điện thoại Vsmart màu đen; 01 điện thoại Samsung A01 màu xanh và 01 điện thoại Realme 9i đều đã qua sử dụng. Bị hại anh Vũ Đình A, chị Bùi Thị Tuyết N, anh Nguyễn Văn Đ đề nghị được nhận lại những tài sản đã bị trộm cắp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Kim T được vợ bị cáo là chị Phạm Thị Huyền Tr bồi thường số tiền 2.500.000 đồng mua 03 chiếc điện thoại nên không yêu cầu gì.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 48/CT-VKSTL ngày 24/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ truy tố bị cáo Phan Tư D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội và tranh luận: Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử thẩm tra công khai tại phiên tòa, lời khai của bị cáo tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giam 10/8/2023. Áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền bị cáo từ 5.000.000đ đến 7.000.000đ sung vào công quĩ.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Bùi Thị Tuyết N 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 trị giá 200.000đ. Số tiền 2.500.000đ bị cáo bán 03 chiếc điện thoại chị Tr là vợ bị cáo đã trả cho anh Trần Kim T nên không xem xét. Về xử lý vật chứng: Trả lại các bị hại 05 điện thoại di động; trả lại bà Nguyễn Thị Ng 01 chiếc xe máy; tịch thu tiêu hủy 01 đèn pin màu xanh đen, 01 quần soóc màu ghi; 01 áo phông màu đen đỏ; 01 đôi giày hãng Bitishunter màu trắng xám xanh. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại giai đoạn điều tra đề nghị được nhận lại 05 chiếc điện thoại bị cáo trộm cắp, yêu cầu bồi thường chiếc điện thoại Nokia 105 bị cáo đã ném đi, đã nhận được số tiền 2.500.000đ do vợ bị cáo hoàn trả, không yêu cầu gì thêm và xét xử hành vi trộm cắp của bị cáo theo đúng pháp luật.

Bị cáo Phan Tư D tự bào chữa: Nhất trí với cáo trạng truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ xác định bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản và đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Đối với đôi giầy, quần soóc, áo phông bị cáo không nhận lại đề nghị tiêu hủy.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Nhận tội và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Lữ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án như: Đơn trình báo và lời khai của bị hại anh Đ, chị Tuyết N, anh A; Báo cáo vụ việc của Công an xã Trung Dũng; Biên bản khám nghiệm, sơ đồ hiện trường; Kết luận định giá tài sản số 70/KL-HĐĐGTS ngày 10/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Lữ; Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và các vật chứng đã thu giữ. Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 05/8/2023, tại nhà anh Nguyễn Văn Đ ở thôn CH, xã TD, huyện TL, tỉnh Hưng Yên Phan Tư D đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại nhãn hiệu Vsmart Joy3 trị giá 850.000 đồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 trị giá 200.000 đồng và 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s trị giá 1.000.000 đồng của gia đình anh Đ. Sau đó, bị cáo đi đến nhà anh Vũ Đình A ở thôn AT, xã TD, huyện TL tiếp tục trộm cắp 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A7 trị giá 1.000.000 đồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A01 trị giá 850.000 đồng và 01 điện thoại nhãn hiệu Realme 9i trị giá 1.500.000 đồng của anh A, tổng trị giá tài sản bị cáo trộm cắp là 5.400.000 đ. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự an ninh ở địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đủ nhận thức và năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lợi dụng sở hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu để trộm cắp tài sản. Bị cáo đã 04 lần bị xét xử đều về tội trộm cắp tài sản bị phạt tù nhưng không lấy đó là bài học tu sửa bản thân, cải tạo thành người có ích cho gia đình, xã hội khi ra tù lại tiếp tục trộm cắp tài sản. Điều đó thể hiện bị cáo coi thường pháp luật, không ăn năn hối cải, khó giáo dục cải tạo nên cần xét xử nghiêm, có mức hình phạt thích đáng tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo.

[4]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu, 04 lần bị đưa ra xét xử về tội trộm cắp, 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, 01 lần bị giáo dục tại xã phường.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự vì thực hiện hai hành vi trộm cắp, trị giá tài sản mỗi lần đều trên 2.000.000 đồng. Lần này là lần thứ năm bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài sản nhưng do các lần phạm tội trước đã được xóa án tích, bị cáo cũng không lấy việc trộm cắp làm nguồn thu nhập chính, có công việc phụ giúp vợ làm nghề Spa và bán hàng cho gia đình nên không phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có bố đẻ ông Phan Văn Đ là thương binh tỷ lệ thương tật 96% nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích và nhận định như trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, buộc phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, có ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp luật, đáp ứng nhu cầu phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai tại phiên toà cho thấy bị cáo có công việc phụ giúp gia đình kiếm thêm thu nhập, 05 lần cùng phạm tội trộm cắp tài sản nên cần áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền 7.000.000đ đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: Tài sản bị cáo trộm cắp là 06 chiếc điện thoại, đã thu hồi được 05 chiếc nên trả lại cho bị hại là anh Đ, chị Bùi Thị Tuyết N, anh A; 01 chiếc điện thoại Nokia 105 trị giá 200.000đ của chị Bùi Thị Tuyết N bị cáo đã ném xuống sông không truy tìm được nên phải bồi thường bằng tiền. Số tiền 2.500.000đ bị cáo bán 03 chiếc điện thoại chị Tr là vợ đã trả cho anh Trần Kim T nên không xem xét. Chiếc xe máy nhãn hiệu Detech classic màu trắng không gắn biển số là tài sản của bà Nguyễn Thị Ng cho bị cáo mượn để đi lại, bà Ng không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản nên cần trả lại cho bà Ng. Đối với 01 đèn pin màu xanh đen bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 quần soóc màu ghi, 01 áo phông màu đen đỏ, 01 đôi giày hãng Bitishunter màu trắng xám xanh bị cáo mặc khi đi trộm cắp, cơ quan điều tra thu giữ để chứng minh hành vi phạm tội bị cáo không có nhu cầu nhận lại nên tịch thu cho tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Luận tội và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo và các vấn đề khác cần giải quyết trong vụ án là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1, Khoản 5 Điều 173; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên bố: Bị cáo Phan Tư D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phan Tư D 02 năm 03 tháng tù (hai năm ba tháng tù), thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giam 10/8/2023.

Áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền bị cáo 7.000.000đ (bẩy triệu đồng chẵn) sung vào công quỹ Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, 589 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho chị Bùi Thị Tuyết N 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 trị giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, b Khoản 1 Điều 46; Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại anh Nguyễn Văn Đ 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s màu vàng. Trả lại chị Bùi Thị Tuyết N 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Vsmart Joy 3 màu đen. Trả lại anh Vũ Đình A 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A01 màu xanh, 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A7 màu xanh đen và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Realme 9i. Trả lại bà Nguyễn Thị Ng 01 xe máy dạng xe Cup nhãn hiệu Detech classic không gắn biển số, số khung: RPECCBIUMGA018477, số máy: VDEJQ139FMB018477.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 đèn pin màu xanh đen; 01 quần soóc màu ghi; 01 áo phông màu đen đỏ; 01 đôi giày hãng Bitishunter màu trắng xám xanh (Tình trạng, số lượng vật chứng theo phiếu nhập kho ngày 09/11/2023 giữa cơ quan Công an huyện Tiên Lữ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiên Lữ).

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 200.000đ án phí dân sự, cộng bằng 400.000đ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án hợp lệ đối với khoản tiền được bồi thường, nếu bị cáo không thi hành thì còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.

Án xử công khai có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên để xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm điện thoại) số 57/2023/HS-ST

Số hiệu:57/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lữ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;