Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm điện thoại) số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC T, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 16/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Mở phiên tòa công khai tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc T ngày 16/01/2023, xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2022/HSST ngày 05/7/2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HS ngày 01/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: LÊ TRUNG Đ, tên gọi khác: không; sinh ngày 26/3/1988 tại Lạc T – Hòa Bình; Nơi ĐKNKTT và cư trú: khu 2, thị trấn Chi N, huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình; Văn hóa phổ thông: 09/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Bố là: Lê Tiến Q, sinh năm 1963; Mẹ là: Phan Thị M, sinh năm 1967; Vợ, con: Chưa có;

Tiền sự: không;

Tiền án: 05 (năm) tiền án.

+ Bản án số 06/2007/HSST ngày 02/8/2007 của Tòa án nhân dân huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình xử phạt 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

+ Bản án số 14/2010/HSST ngày 28/10/2010 của Tòa án nhân dân huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình xử phạt 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

+ Bản án số 25/2014/HSST ngày 26/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình xử phạt 24 (Hai tư) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản;

+ Bản án số 13/2017/HSST ngày 26/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản;

+ Bản án số 17/2019/HSST ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình xử phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình: có mặt tại phiên tòa.

Người Bị hại:

- Chị Vũ Thị N, sinh năm 1964; Địa chỉ: thôn Hồng Phong 2, xã Y, huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình: vắng mặt.

- Chị Bùi Thị V, sinh năm 1986; Địa chỉ: thôn Liên Hồng, xã T, huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình: vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 13h45 phút ngày 11/01/2022, Lê TRUNG Đ đến khoa Nhi tại tầng 2 của Trung tâm y tế huyện Lạc T và phát hiện tại phòng nhi số 4, Chị Vũ Thị N, chị Bùi Thị V sơ hở trong việc quản lý điện thoại di dộng, nên đã lén lút đột nhập, chiếm doạt của chị N 01 chiếc điện thoại hiệu Samsung J6+, chiếm đoạt của chị Vân 01 điện thoại hiệu Oppo A5. Sau khi lấy được tài sản, Đức đang định tẩu thoát thì quần chúng nhân dân phát hiện, truy hô, phối hợp với cán bộ, nhân viên Trung tâm y tế, lực lượng Công án bắt quả tang Lê TRUNG Đ cùng toàn bộ tang vật. Kiểm tra vật chứng, cơ quan điều tra phát hiện phía sau ốp điện thoại của chị Vũ Thị N có 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Bản thân bị cáo Đức không biết có tờ tiền này phía sau ốp điện thoại và không có mục đích chiếm đoạt tờ tiền đó.

[2] Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự khẳng định tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của chị Vũ Thị N và Bùi Thị V là 2.583.000đồng (Trong đó chiếc điện thoại Samsung J6+ trị giá 1.033.000 đồng, chiếc điện thoại Oppo A5 trị giá 1.550.000 đồng.

[3] Cáo trạng số 13/CT-VKSLT ngày 05/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc T, tỉnh Hòa Bình đã truy tố Lê TRUNG Đ về tội “Trộm cắp tài sản”,, theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[4] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo, Đại diện Viện Kiểm sát có ý kiến như sau:

4.1. Bị cáo Lê TRUNG Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân phù hợp Cáo trạng và các tài liệu, chứng cứ phản ánh trong hồ sơ vụ án. Thừa nhận trưa ngày 11/01/2022, bản thân đã lén lút chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động của chị N, chị Vân tại Phòng nhi số 4 Trung tâm y tế huyện Lạc T như cáo trạng đã truy tố. Công nhận giá trị tài sản chiếm đoạt như kết quả định giá trong tố tụng hình sự xác định là đúng thực tế, không khiếu nại.

4.2. Đại diện Viện Kiểm sát huyện Lạc T thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê TRUNG Đ về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS. Viện Kiểm sát cho rằng bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản trộm cắp giá trị không lớn, đã được thu hồi để trả lại cho các bị hại;

bản thân bị cáo có gia cảnh khó khăn, nên đề nghị áp dụng các điểm s, h khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 54; điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 14 tháng đến 18 tháng tù. Đối với tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng chị Vũ Thị N để phía sau ốp điện thoại bản thân bị cáo không biết và không có mục đích chiếm đoạt tờ tiền này, nên không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền đó.

Về trách nhiệm dân sự đề nghị không đề cập do các bị hại không yêu cầu bồi thường.

Về vật chứng của vụ án, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng các điều 47, 48 BLHS, điều 106 BLTTHS, tuyên trả lại cho chị Vũ Thị N 01 chiếc điện thoại Samsung J6+ và 500.000 đồng; trả lại cho chị Bùi Thị V 01 điện thoại Oppo A5 . Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử duy trì biện pháp tạm giam đối với bị cáo và tuyên án phí, quyền kháng cáo theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

{5} Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát đã áp dụng các quy định của pháp luật Hình sự, pháp luật tố tụng Hình sự theo quy định chung đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Bản thân bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

{6} Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bản thân đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay lại lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá 2.583.000đồng là phạm tội “Trộm cắp tài sản”, với tình tiết tang nặng định khung “Tái phạm nguy hiểm”, quy định tại điểm g khoản 2 điều 173 BLHS.

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội; xâm hại quyền sở hữu về tài sản của công dân; gây mất trật tự trị an, nên phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự. Xét tính chất của vụ án, nhân thân của bị cáo thấy cần xử phạt tù giam để đảm bảo mục đích giáo dục, phòng ngừa tội phạm.

{7} Khi lượng hình cũng xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tài sản trộm cắp giá trị không lớn, đã được thu hồi để trả lại cho người bị hại; Bản thân bị cáo có gia cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s, h khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự để áp dụng và có thể cho bị cáo hưởng mức hình phạt dưới khung luật định, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Sau khi bắt quả tang hành vi phạm tội của Lê TRUNG Đ, cơ quan Công an tiến hành kiểm tra vật chứng và phát hiện phía sau ốp điện thoại của chị Vũ Thị N có 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Do bị cáo Đức không biết có tờ tiền phía sau ốp điện thoại và không có mục đích chiếm đoạt tờ tiền, nên Viện kiểm sát không buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 500.000 đồng này là có cơ sở.

{8}. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường , nên không đề cập.

{9}. Về vật chứng cử vụ án: Cần trả lại cho các bị hại Vũ Thị N 01điện thoại Samsung J6+ và 500.000 đồng; trả lại cho chị Bùi Thị V 01 điện thoại Oppo A5.

{10} Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định chung. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g khoản 2 điều 173; các điểm s, h khoản 1; khoản 2 điều 51; điều 38; điều 54 BLHS xử phạt bị cáo Lê TRUNG Đ 14 (Mười bốn) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tính từ ngày 11/01/2022.

2. Áp dụng các điều 47, 48 Bộ Luật hình sự; điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự, tuyên xử lý vật chứng thu giữ từ bị cáo khi bắt quả tang như sau:

- Trả lại cho chị Vũ Thị N 01 chiếc điện thoại Samsung J6+, màu đỏ và 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng);

- Trả lại cho chị Bùi Thị V 01 điện thoại Oppo A5 màu trắng.

(Điện thoại Samsung J6+ của chị N, điện thoại Oppo A5 của chị Vân đang được lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Lạc T, theo biên bản giao nhận vật chứng,+ tài sản lập ngày 16/01/2023 với Công an huyện Lạc T).

3. Bị cáo Lê TRUNG Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo phúc thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận kết quả xét xử hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm điện thoại) số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;