Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm chó) số 21/2017/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 21/2017/HS-ST NGÀY 06/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào lúc 08 giờ 00 ngày 06 tháng 9 năm 2017 tại Nhà sinh hoạt cộng đồng khu phố 8, thị trấn R, huyện S, tỉnh Phú Yên. Tòa án Nhân dân (TAND) huyện S, tỉnh Phú Yên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số 18/2017/HS-ST ngày 04-8-2017 đối với các bị cáo:

1. Trần Minh A, sinh năm 1991; sinh quán: Phú Yên; nơi cư trú: Thôn M Nam, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 7/12; con ông Trần Ngọc B, sinh năm 1968 và bà Võ Thị C, sinh năm 1972; vợ Nguyễn Thị Bích D, sinh năm 1993; có 01 con, sinh năm 2014; Tiền án: Không; Tiền sự: Năm 2015, bị Công an xã H, huyện Phú Hòa xử phạt hành chính 1.500.000đ về hành vi: Trộm cắp tài sản, chưa nộp phạt.

Bị bắt tạm giam từ ngày 25-5-2017. Bị cáo bị dẫn giải. Có mặt.

2. Đường Thị E, sinh năm 1984; sinh quán: Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn Tân An, xã S, huyện H, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: Lớp 4/12; con ông Đường Vinh F, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1962; chồng Lê Văn H, sinh năm 1978; Con: có 02 con, nhỏ sinh năm 2003, lớn sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 22-8-2017. Bị cáo bị dẫn giải. Có mặt.

3. Công Văn I (Vỹ), sinh năm 1983; sinh quán: Phú Yên; nơi cư trú: Thôn Thạnh Hội, xã S, huyện H, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Lái xe ô tô; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; con ông Công K, chết và bà Lương Thị L, chết; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 22-8-2017. Bị cáo bị dẫn giải. Có mặt.

* Những người bị hại:

1. Anh Nay Y M, sinh năm 1975; nơi cư trú: Buôn Ly, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

2. Anh Ksor Y N (Ma Long), sinh năm 1981; nơi cư trú: Buôn Bầu, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

3. Anh H Ra Y O, sinh năm 1968; nơi cư trú: Buôn Bầu, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

4. Chị Huỳnh Thị Ánh P, sinh năm 1987; nơi cư trú: Khu phố 2, thị trấn R, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

5. Chị Trần Thị Q, sinh năm 1963; nơi cư trú: Khu phố 6, thị trấn R, huyện S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

6. Anh Lê Khánh R, sinh năm 1967; nơi cư trú: Khu phố 8, thị trấn R, huyện S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Văn H, sinh năm 1978; nơi cư trú: Thôn Tân An, xã S, huyện H, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

2. Ông Lê Trọng T (Cót), sinh năm 1995, nơi cư trú: Thôn M, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo bị VKSND huyện S, tỉnh Phú Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau: E cùng chồng là Lê Văn H hành nghề mua bán thịt chó. E, H mua 01 xe ô tô hiệu MEKONG biển số 78K-X để phục vụ việc vận chuyển chó khi mua bán. Trần Minh A giới thiệu Công Văn I đến lái xe cho E và H. A bàn bạc với E và I sử dụng xe ô tô hiệu MEKONG biển số 78K-X do I điều khiển để vận chuyển chó, E trả công cho I mỗi chuyến 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), E và I đồng ý. Khoảng 22 giờ ngày 17-10-2016, A cùng với các đối tượng Cải, Mỹ, Hổ (chưa xác định địa chỉ) điều khiển xe honda mang theo thòng lọng, ná cao su, xăng, ớt bột, bao tải, băng keo… đến xã E và thị trấn R, huyện S bắt trộm được 27 con chó, sau đó I điều khiển xe ô tô chở Lê Trọng T đem theo 04 rọ sắt đến bỏ chó vào rọ chở về bán cho E, khi đi đến bờ đập Thủy điện Sông Ba Hạ thì bị cảnh sát giao thông Công an huyện H kiểm tra hành chính phát hiện tạm giữ toàn bộ phương tiện và tang vật giao cho công an xử lý.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Ngày 15-10-2016, A cùng với Cải, Mỹ, Hổ đến xã EaChàrang, huyện H và huyện Krông pa, tỉnh Gia Lai bắt trộm 13 con chó, I điều khiển xe ô tô chở Trương Văn Sơn, sinh năm 1999, trú tại: Thôn Tân An, xã S, huyện H đến chở chó về bán cho E thu được 4.600.000 đồng. Ngày 16- 10-2016, A cùng với Cải bắt tại huyện H 02 con chó, tại huyện S 04 con chó, tổng cộng 06 con, I điều khiển xe ô tô đến chở chó, trên đường đi bị cảnh sát giao thông phát hiện nên lái xe quay về, A và Cải điều khiển xe hon da chở 06 con chó đem bán cho E thu được 2.200.000 đồng, số tiền bán chó A, Cải và đồng phạm chia nhau tiêu xài.

Tại các bản kết luận định giá tài sản số 72 ngày 18-10-2016 và số 19 ngày 05-5- 2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện S kết luận: 27 con chó có trọng lượng 358 kg x 50.000 đồng/kg=17.900.000 đồng; 01 xe ô tô hiệu MEKONG STAR sản xuất năm 1993 biển số 78K-X qua sử dụng giá trị còn lại định giá 40.000.000 đồng.

Vật chứng đã thu giữ: 01 xe ô tô hiệu MEKONG biển số 78K-X; 04 lồng sắt; 02 cây thòng lọng; 02 cái rựa; 02 can nhựa loại 10 lít đựng xăng; 01 cây đèn pin; 01 can nhựa loại 01 lít đựng ớt bột; 02 can nhựa loại 02 lít; 01 vỏ chai bia sài gòn; 01 ná cao su; 06 viên đá nhỏ; 01 cái kéo; 01 áo khoát dài tay; 03 điện thoại di động (01 điện thoại di động hiệu OPPO; 02 điện thoại di động hiệu NOKIA) và 27 con chó (trong thời gian thông báo truy tìm chủ sở hữu chó bị nhốt nhiều ngày đã chết tiêu hủy 04 con, xổng chuồng mất 12 con, trả lại chủ sở hữu 05 con, bán thanh lý 06 số tiền 2.025.000 đồng).

Tại bản cáo trạng số 19/VKS-HS ngày 04-8-2017 của VKSND huyện S đã truy tố các bị cáo Trần Minh A, Đường Thị E và Công Văn I về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999.

Tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét.

* Những người bị hại: Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án:

1. Anh Nay Y M trình bày: Ngày 17-10-2016 gia đình tôi có mất một con chó cái lông vàng, ngày 21-10-2016 Công an huyện H thông báo, tôi đến Công an huyện H nhận lại con chó, tôi không có yêu cầu gì.

2. Anh Ksor Y N (Ma Long) trình bày: Ngày 17-10-2016 gia đình tôi có mất một con chó đực lông Xám- Trắng, sau khi bị mất gia đình tôi có đi tìm nhưng không thấy, đến ngày 22-10-2016 Công an huyện H thông báo hiện đang tạm giữ một số chó bị bắt trộm, tôi đến Công an huyện H nhận dạng, đã nhận lại con chó, tôi không có yêu cầu gì.

3. Anh HRa Y O trình bày: Ngày 17-10-2016 gia đình tôi có mất một con chó đực lông đỏ, ngày 23-10-2016 Công an huyện H thông báo, tôi đến nhận dạng và tôi đã nhận lại con chó, tôi không có yêu cầu gì.

4. Chị Huỳnh Thị Ánh P trình bày : Rạng sáng ngày 18-10-2016 gia đình tôi có mất một con chó đực lông vàng, cũng trong ngày hôm đó gia đình tôi biết Công an huyện H thông báo hiện đang tạm giữ một số chó bị bắt trộm, tôi đến Công an huyện H nhận dạng và tôi đã nhận lại con chó, tôi không có yêu cầu gì.

5. Chị Trần Thị Q trình bày: Vào khoảng 4 giờ 30 sáng ngày 18-10-2016 gia đình tôi có mất một con chó cái lông đen trắng, đến ngày 19-10-2016 tôi đến Công an huyện H nhận dạng và tôi đã nhận lại con chó, tôi không có yêu cầu gì.

6. Anh Lê Khánh R trình bày: Vào khoảng 5 giờ 20 sáng ngày 18-10-2016 gia đình tôi có mất một con chó cái lông đen, tại Tòa hôm nay tôi yêu cầu các bị cáo phải bồi thường cho tôi 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Văn H trình bày: Tôi với bị cáo A quen với nhau là do A đến quán tôi nhậu thịt chó, tôi có nhờ A tìm giúp tài xế lái xe ô tô, A có giới thiệu Công Văn I, trong thời gian tôi đang học giấy phép lái xe thì tôi có hợp đồng với I để lái, tiền lương trả theo chuyến. Tối 17-10-2016 I điều khiển xe 78K-X đi chở chó do A trộm thì bị Công an huyện H bắt giữ, việc điều động xe đi chở chó là do Đường Thị E vợ tôi điều động, việc này tôi hoàn toàn không biết.

2. Ông Lê Trọng T (Cót) trình bày: Tôi quen với anh H và chị E là do tôi đến quán anh H nhậu thịt chó, còn anh A là người ở cùng thôn nên tôi biết. Chiều ngày 17-10-2016 tôi có ghé lại quán chị E chơi, sau khi uống cà phê với anh H xong thì chị E có hỏi “Mày có rảnh không Cót, nếu rảnh thì đi chơi với I”, tôi nói rảnh và đồng ý đi với I, tối hôm đó khoảng 23 giờ thì I chở tôi đến S để chở chó trộm, lúc đi thì tôi không biết là đi chở chó, khi lên xe thì tôi ngủ, đến gần sáng xe quay về S thì bị Công an bắt. Việc bắt và chở chó trộm tôi không tham gia và cũng không biết gì.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng, đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS; Phạt: Bị cáo Trần Minh A từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25-5-2017. Bị cáo Đường Thị E 06 tháng đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22-8-2017. Bị cáo Công Văn I 06 tháng đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22-8- 2017.

*Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và tiền bồi thường của các bị cáo nên không có yêu cầu gì. Đề nghị Tòa không xem xét.

*Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên thu sung quỹ nhà nước chiếc xe ô tô hiệu MEKONG biển số 78K-X, 03 điện thoại di động (02 Nokia, 01 Oppo) và 2.025.000 đồng.

Tuyên tiêu hủy: 04 lồng sắt, 02 thòng lọng, 02 cái rựa, 02 can nhựa loại 10 lít đựng xăng, 01 cây đèn pin, 01 can nhựa loại 01 lít đựng ớt bột, 02 can nhựa loại 02 lít, 01 vỏ chai bia Sài Gòn, 01 ná cao su, 06 viên đá nhỏ, 01 cái kéo, 01 áo khoác dài tay vì không còn giá trị sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà. HĐXX nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên, trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo quy định pháp luật. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Với ý định trộm cắp tài sản nhằm thu lợi bất chính từ tài sản của người khác, các bị cáo đã chuẩn bị sẵn nhiều phương tiện như: xe ô tô, lồng sắt, cây thòng lọng, rựa, can nhựa, ớt bột, bao tải, băng keo, vỏ chai bia sài gòn, ná cao su, đá nhỏ, kéo, điện thoại di động…Ngày 17-10-2016, các bị cáo đến xã E và thị trấn R, huyện S bắt trộm 27 con chó, trọng lượng 358 kg, bị cáo E là người điều khiển việc trộm cắp và tiêu thụ tài sản trộm cắp. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được định giá là 17.900.000 đồng (Mười bảy triệu chín trăm nghìn đồng).

Định lượng tài sản và hành vi nêu trên đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Cáo trạng của VKSND huyện S truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 là có căn cứ.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, tạo nghi ngờ nội bộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tuy không mang tính chất quy mô lớn nhưng có sự thống nhất cùng thực hiện việc trộm cắp chó, nếu bị phát hiện thì sẵn sàng chống trả bằng ná, rựa, ớt bột, mẻ chai, xăng đốt đã thủ sẵn chứng tỏ các bị cáo cố tình thực hiện tội phạm đến cùng thể hiện tính chất nguy hiểm nên cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Xét tính chất, mức độ phạm tội và vai trò của từng bị cáo thấy rằng:

Bị cáo A là người chủ mưu, biết địa điểm, khu vực có nhiều tài sản (chó) nên chủ động rủ các bị cáo cùng chuẩn bị phương tiện phạm tội để trộm cắp, với vai trò tích cực nhất bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không chịu sửa chữa lỗi lầm nên phải chịu mức án cao nhất so với đồng phạm cùng tội danh.

Bị cáo Đường Thị E, tuy không trực tiếp thực hiện nhưng là người điều khiển từ xa trong việc trộm cắp chó, là người cung cấp phương tiện xô ô tô phục vụ việc bắt chó với quy mô lớn, ở nhiều địa phương như tỉnh Gia Lai, Đăk Lăk, Phú Yên…, là người chuyên mua bán chó nên cũng là nơi tiêu thụ, tiếp tay cho các bị cáo trộm cắp, là người thuê bị cáo I đi thu gom chó sau khi trộm được và dùng xe ô tô của mình chở về nhà tiêu thụ nên cần xử lý nghiêm.

Bị cáo Công Văn I, là đồng phạm giúp sức tích cực, biết rõ việc lái xe thuê là đi vận chuyển chó bắt trộm nhưng vẫn tham gia, hưởng lợi nhuận từ việc trộm cắp do bị cáo E trả công nên cũng phải chịu mức án tương xứng ngang với bị cáo E.

Tuy nhiên, xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo E và bị cáo I phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS để áp dụng khi lượng hình. Mức án mà Kiểm sát viên đề nghị xử phạt các bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.

Quá trình điều tra xác định, ngoài 03 bị cáo (A, E và I) còn có các đối tượng khác như tên Cải, Hổ, Mỹ và Trương Văn Sơn cùng thực hiện việc bắt trộm chó. Đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng không xác định được và không có mặt tại địa phương. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S tiếp tục điều tra, xử lý sau.

* Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại đã nhận lại tài sản và tiền bồi thường của các bị cáo. Có đơn xin đề nghị xử vắng mặt và không có yêu cầu gì nên Tòa không xem xét.

* Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Đối với Lê Văn H là chồng bị cáo E, cho rằng thời điểm bị cáo I lấy xe ô tô đi chở chó ông H không biết và không tham gia, xét thấy không đủ căn cứ vững chắc để xử lý nên không xét;

Ông Lê Trọng T chỉ là người theo xe ô tô chơi nên không xem xét trách nhiệm liên quan.

* Về xử lý vật chứng: 04 lồng sắt, 02 cây thòng lọng; 02 cái rựa; 02 can nhựa loại 10 lít đựng xăng; 01 cây đèn pin; 01 can nhựa loại 01 lít đựng ớt bột; 02 can nhựa loại 02 lít; 01 vỏ chai bia sài gòn; 01 ná cao su; 06 viên đá nhỏ; 01 cái kéo; 01 áo khoát dài tay không còn giá trị sử dụng, đều là phương tiện phạm tội nên tuyên tiêu hủy.

Xét chiếc xe ô tô hiệu MEKONG biển số 78K-X hiện ông Nguyễn Đức Hội, sinh năm 1961, trú quán: 91 Lê Lợi, Phường 3, TP Tuy Hòa nhưng ông Hội trình bày đã bán từ lâu qua nhiều người mua bán nên không xác định và ông H cũng không chứng minh có căn cứ là tài sản riêng, bị cáo E tự ý dùng làm phương tiện phạm tội, lúc bị cáo I điều khiển thì ông H (chồng bị cáo E) đều biết nên xác định là phương tiện phạm tội cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Tuyên thu sung công qũy nhà nước số tiền 2.025.000 đồng bán thanh lý 06 con chó và 03 điện thoại di động (01 điện thoại di động hiệu OPPO, 02 điện thoại di động hiệu NOKIA).

* Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Minh A, Đường Thị E và Công Văn I đều phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS. Phạt: Trần Minh A 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25-5-2017.

Căn cứ khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS. Phạt: Đường Thị E 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22-8-2017 Căn cứ khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46 BLHS. Phạt: Công Văn I 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22-8-2017.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS; Điều 76 BLTTHS:

+Tuyên tiêu hủy: 04 lồng sắt; 02 cây thòng lọng, 02 cái rựa; 02 can nhựa loại 10 lít đựng xăng; 01 cây đèn pin; 01 can nhựa loại 01 lít đựng ớt bột; 02 can nhựa loại 02 lít; 01 vỏ chai bia sài gòn; 01 ná cao su; 06 viên đá nhỏ; 01 cái kéo; 01 áo khoát dài tay là phương tiện phạm tội không còn giá trị sử dụng.

+Tuyên thu sung quỹ nhà nước: 01 xe ô tô hiệu MEKONG biển số 78K-X và 03 điện thoại di động (01 hiệu OPPO; 02 hiệu NOKIA) và số tiền bán chó thu được 2.025.000 đồng (Hai triệu không trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

(theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S và Chi cục thi hành án dân sự huyện S ngày 08-08-2017)

*Về án phí: Căn cứ Điều 99 BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiện tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm chó) số 21/2017/HS-ST

Số hiệu:21/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Hinh - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;