Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm bò) số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG YANG, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 13/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2022/TLST-HS, ngày 22 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Vi Văn T Sinh ngày: 20/6/1994 tại tỉnh T Nơi ĐKTT và chỗ ở: Làng D N, xã K T, huyện Y, tỉnh G; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn L (sinh năm:1966) và bà Hà Thị C (sinh năm: 1969); bị cáo có vợ Sầm Thị R và 01 con (sinh năm: 2018) Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/8/2022 cho đến nay. (Có mặt)

* Bị hại:

1 - Ông B – sinh năm: 1967 Trú tại: Làng P N, xã K T, huyện Y, tỉnh G. (Vắng mặt)

2 - Ông S – sinh năm: 1954 Trú tại: Làng Đ P N, xã K T, huyện Y, tỉnh G. (Có mặt)

3 - Bà Y – sinh năm: 1986 Trú tại: Làng Đ P N, xã K T, huyện Y, tỉnh G. (Có mặt)

4 - Ông B – sinh năm: 1986 Trú tại: Làng B, xã L P, huyện Y, tỉnh G. (Vắng mặt)

5 - Ông A– sinh năm: 1989 Trú tại: Làng B, xã L P, huyện Y, tỉnh G. (Vắng mặt)

6 - Ông D – sinh năm: 1968 Trú tại: Làng Đ O, xã K, huyện Y, tỉnh G. (Vắng mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1 - Ông Nguyễn Xuân H – sinh năm: 1979 Trú tại: Làng Đ Ch, xã K T, huyện Y, tỉnh G. (Có mặt)

2 - Ông Nguyễn H – sinh năm: 1968 Trú tại: Làng Ch xã K T, huyện Y, tỉnh G. (Có mặt)

3 - Ông Võ Thái L – sinh năm: 1994 Trú tại: Thôn Cây Điệp, xã KDang, huyện Đak Đoa, tỉnh G. (Vắng mặt)

4 - Ông Sầm Văn Đ – sinh năm: 1963 Trú tại: Làng D N, xã K T, huyện Y, tỉnh G. (Có mặt)

5 - Bà Sầm Thị R – sinh năm: 1994 Trú tại: Làng D N, xã K T, huyện Y, tỉnh G. (Vắng mặt)

6 - Ông Vi Văn L – sinh năm: 1966 Trú tại: thị trấn H X, huyện Quan Hóa, tỉnh T. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 06/8/2022, sau khi đi uống rượu ở làng Th, xã K Ch, huyện Y, tỉnh G, Vi Văn T điều khiển xe mô tô biển số 81E1-xxxxx đi về nhà, khi đi đến đoạn đường ngã ba Đăk Ó, xã K thì T dừng lại đi vệ sinh, lúc này T nhìn thấy chuồng bò của nhà ông D có mấy con bò nên nảy sinh ý định trộm cắp bò. Vi Văn T đi bộ đến chuồng bò, rồi lén tút trộm cắp 03 con bò dắt ra khỏi chuồng về hướng trường học cách đó khoảng 400 mét để cất giấu. Khi dắt đi được một đoạn thì T nhìn thấy có một thanh niên nam tầm khoảng 14 đến 15 tuổi, người đồng bào (không rõ nhân thân, lai lịch), đang đi bộ đến thì T nói: “cháu giúp chú lùa bò, tý chú cho tiền” thì người này nhận lời. T và người thanh niên này đã lùa 03 con bò mà T trộm cắp trước đó đến trường học rồi T cho người thanh niên kia 200.000 đồng. Sau đó T quay lại chỗ để xe máy và gọi điện thoại thuê anh Nguyễn Xuân H đến chở 03 con bò vừa trộm cắp được về nhà mình. Khi về đến nhà thì T lùa 03 con bò vào chuồng bò của gia đình bố vợ là ông Sầm Văn Đ, sau đó T mượn vợ là Sầm Thị R 500.000 đồng để trả tiền xe chở bò cho anh H1. Ngày 07/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y tiến hành thu giữ 03 con bò mà Vi Văn T đã trộm cắp. Đến ngày 10/8/2022, Vi Văn T đã đến Công an để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Trong quá trình điều tra, ngoài lần phạm tội nêu trên, Vi Văn T còn khai nhận thêm 03 vụ trộm cắp tài sản (bò) trên địa bàn huyện Y. Cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ, ngày 21/3/2022, Vi Văn T trên đường đi làm về có đi ngang qua nhà của ông B thì nhìn thấy có 01 con bò cái đang được cột ở trước cửa chuồng bò nhà ông B nên nảy sinh ý định trộm cắp con bò trên. Vi Văn T đi đến quan sát không thấy ai trông coi nên đã lén lút tháo dây thừng rồi dắt con bò này đi về cột tại bãi đất trống cạnh nhà mình. Đến sáng ngày 22/3/2022, Vi Văn T gọi điện thoại cho ông Nguyễn H để bán. Khi được T gọi đến để mua bò thì ông Nguyễn H nghĩ là bò của nhà T muốn bán (vì trước đây hai bên đã trao đổi bò cho nhau nên quen biết). Sau khi nhìn thấy bò, ông H đã trả giá 12.000.000 đồng thì T đồng ý bán con bò trên cho ông H.

Vụ thứ hai: Khoảng 15 giờ ngày 28/05/2022, Vi Văn T đi lên khu vực vườn cao su thuộc làng Đ P N, xã K T, huyện Y, tỉnh G để tìm mua trụ rào thì nhìn thấy có 04 (bốn) con bò, trong đó có 01 con bò đực và 02 con bò cái tơ của ông S và 01 con bò cái đã đẻ được hai lứa của bà Y đang chăn thả tại bãi đất trống gần đó. Vi Văn T thấy không có ai trông coi nên nảy sinh ý định thực hiện hành vi trộm cắp số bò này. T lén lút lùa 04 con bò đi được 200m rồi cột lại và gọi điện thoại cho anh Nguyễn Xuân H thuê đến chở số bò trên về bãi đất trống gần nhà, T trả 300.000 đồng tiền thuê xe chở bò cho anh H1, lúc đó tầm khoảng 20 giờ tối. Tối cùng ngày, T vào Facebook thì thấy trong nhóm chăn nuôi bò G có anh Võ Thái L cần mua bò nên T đã liên hệ với anh L. Sáng ngày 29/5/2022 anh Võ Thái L đến xem và mua 03 con bò cái mà Vi Văn T trộm cắp với số tiền 30.000.000 đồng và 01 con bò đực của nhà T nữa với giá 16.000.000 đồng. Tổng cộng anh Võ Thái L đã đưa cho Vi Văn T 46.000.000 đồng rồi chở bò đi. Ngày hôm sau T gọi điện thoại ông Nguyễn H đến để bán con bò đực mà T đã trộm cắp với giá 13.000.000 đồng. Tổng số tiến mà Vi Văn T đã thực hiện hành vi trộm 04 con bò trên bán được là 43.000.000 đồng.

Vụ thứ ba: Chiều ngày 01/8/2022, sau khi tan ca tại Công ty chăn nuôi G tại xã L P, huyện Y, Vi Văn T đi bộ về nhà thì thấy có nhiều bò chăn thả tại đây nên T tiếp tục nảy sinh ý định trộm cắp bò. T chọn 01 con cái của ông B để trộm cắp. Sau khi dắt con bò của ông B đi được một đoạn ra đến đường đất thì T tiếp tục nhìn thấy 01 con bò cái của ông A đang được cột tại đây nên tiếp tục nảy sinh ý định trộm cắp tiếp. T dắt 02 con bò đi bộ khoảng gần 05km đến đoạn đường thuộc làng Groi, xã K T, huyện Y, tỉnh G thì cột lại sau đó đi về nhà.

Ngày hôm sau Vi Văn T đi làm tại công ty chăn nuôi G đến chiều đi về ghé vào chỗ cột 02 con bò trên thì thấy vẫn còn bò nên đã gọi điện thoại thuê anh Nguyễn Xuân H để đến chở. Trong khi chờ H1 đến thì Vi Văn T tiếp tục dắt 02 con bò đi được một đoạn nữa thì gặp xe của H1 đến và lùa bò lên xe chở về khu đất trống cạnh nhà rồi cột bò tại đó, T trả 200.000 đồng tiền chở bò cho anh H1. Đến chiều ngày hôm sau, T gọi điện thoại cho ông Nguyễn H đến bán 02 con bò trộm cắp nêu trên được 24.500.000 đồng.

Ngày 17/8/2022, Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện Y, tỉnh G có kết luận giám định số: 30/KL-HĐĐGTS đối với 03 con bò có tổng khối lượng 440kg của ông D bị Vi Văn T trộm cắp vào ngày 06/8/2022 có trị giá 26.400.000 đồng.

Ngày 13/9/2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Y, tỉnh G có kết luận giám định số: 34/KL-HĐĐGTS đối với 02 con bò của các ông B và ông A bị Vi Văn T trộm cắp vào ngày 01/8/2022 có trị giá 30.600.000 đồng. Trong đó con bò cân nặng 250kg của ông B có giá trị 15.000.000 đồng và con bò nặng 260kg của ông A có giá trị 15.600.000 đồng.

Ngày 05/10/2022, Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự huyện Y, tỉnh G có kết luận giám định số: 37/KL-HĐĐGTS đối với đối với 01 con bò cái, nặng 250kg của ông B bị Vi Văn T trộm cắp vào ngày 21/3/2022 có trị giá 16.250.000 đồng.

Ngày 05/10/2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Y, tỉnh G có kết luận giám định số: 38/KL-HĐĐGTS đối với 04 con bò mà Vi Văn T trộm cắp vào ngày 28/5/2022, tại làng Đ P N, xã K T, huyện Y, tỉnh G có trị giá 45.500.000 đồng. Trong đó con bò cái đã đẻ được 02 lứa, cân nặng 160kg của bà Y có giá trị 10.400.000 đồng.

* Vật chứng thu giữ:

- Ngày 07/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G tiến hành tạm giữ 03 con bò có tổng khối lượng 440kg của ông D bị mất trộm vào ngày 06/8/2022 tại nhà của Vi Văn T.

- Ngày 07/8/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G tiến hành tạm giữ xe ôtô biển số: 47C-xxxxx của Nguyễn Xuân H - trú tại: Làng D N, xã K T, huyện Y, tỉnh G, là phương tiện chở số bò mà Vi Văn T trộm cắp được về nhà của T trong các lần phạm tội.

- Ngày 10/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G tiến hành tạm giữ 02 con bò, trong đó 01 con bò nặng 250kg của ông A và 01 con bò nặng 260 của ông B bị mất trộm vào ngày 01/8/2022 đã được Vi Văn T bán cho ông Nguyễn H.

- Ngày 10/8/2022 bà Sầm Thị R giao nộp một xe mô tô biển số 81E1-xxxxx được Vi Văn T sử dụng đi lại vào ngày 06/8/2022.

- Ngày 10/8/2022 tạm giữ 01 (một) điện thoại di động màu vàng, mặt sau ghi chữ Poco, đã qua sử dụng của Vi Văn T.

* Việc xử lý vật chứng:

- Ngày 08/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G đã ra Quyết định xử lý đồ vật tài liệu số: 14/QĐ-XLTS, trả lại 03 con bò trên cho chủ sở hữu là ông D.

- Ngày 11/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G đã ra Quyết định xử lý đồ vật tài liệu số: 17/QĐ-XLTS, trả lại 02 con bò trên cho chủ sở hữu là ông B và ông A ngưi.

- Ngày 03/11/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G đã ra Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu số: 26/QĐ-XLTS, bằng hình thức trao trả cho bà Sầm Thị R chiếc xe mô tô biển số 81E1-xxxxx.

* Về phần dân sự:

- Sau khi nhận lại bò các bị hại D, A, B không yêu cầu bị cáo Vi Văn T phải bồi thường về mặt trách nhiệm dân sự.

- Ngày 31/10/2022 gia đình của bị cáo Vi Văn T thống nhất bồi thường phần dân sự cho bị hại S số tiền 20.000.000 đồng; bồi thường cho bị hại Y số tiền 7.000.000 đồng; bồi thường cho bị hại B số tiền 10.000.000 đồng. Các bên đã giao nhận tiền đầy đủ và không có yêu cầu bồi thường dân sự gì thêm.

- Ông Nguyễn H yêu cầu bị cáo Vi Văn T bồi thường số tiền 24.500.000 đồng mà ông H mua 02 con bò của Vi Văn T vào ngày 01/8/2022. Hiện bị cáo T chưa bồi thường cho ông Nguyễn H.

* Đối với những người liên quan:

- Đối với ông Nguyễn Xuân H là người chở bò thuê cho bị cáo Vi Văn T vào ngày 21/3/2022, 28/5/2022, 01/8/2022 và 06/8/2022. Quá trình điều tra xác định bị cáo Vi Văn T không trao đổi trước với ông H1 về việc chở bò trộm cắp mà chỉ thuê chở từ nơi bị cáo T tập kết bò để về nhà, ông H1 được bị cáo T thuê và trả tiền phù hợp với quãng đường đi lại. Mặt khác, ông Nguyễn Xuân H không biết số bò trên được bị cáo T trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G không có căn cứ xử lý đối với ông Nguyễn Xuân H.

- Đối với ông Nguyễn H và ông Võ Thái L là người mua bò của bị cáo Vi Văn T nhưng cả hai không biết được số bò trên là do T trộm cắp mà có. Ông Nguyễn H và ông Võ Thái L mua bò của bị cáo T với giá thị trường không chênh lệch nhiều so với giá cả của Hội đồng định giá kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G không có căn cứ để xử lý đối với ông Nguyễn H và ông Võ Thái L.

- Đối với ông Sầm Văn Đ và bà Sầm Thị R là cha vợ và vợ của bị cáo Vi Văn T nhưng không biết nguồn gốc số bò T đưa về nhà là do T trộm cắp mà có. Khi bán bò, T cũng không đưa tiền cho gia đình. Ngày 07/8/2022 khi nhận được thông tin 03 bò mà T mới thuê xe chở về nhà là do trộm cắp mà có nên cả hai đã giao nộp cho cơ quan chức năng để xử lý theo quy định. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh G không có căn cứ để xử lý đối với ông Sầm Văn Đ và bà Sầm Thị R.

Tại Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh G truy tố bị cáo Vi Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị :

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vi Văn T từ 03 đến 04 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 10/8/2022.

- Các biện pháp tư pháp: không.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu vàng, mặt sau ghi chữ Poco mà bị cáo Vi Văn T đã sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại xe ôtô biển số: 47C-xxxxx cho ông Nguyễn Xuân H là chủ sở hữu hợp pháp.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Vi Văn T phải bồi thường cho ông Nguyễn H số tiền 24.500.000 đồng mà ông H mua 02 con bò của Vi Văn T vào ngày 01/8/2022.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Vi Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Áp dụng Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 23; Điều 26 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Vi Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại D, A, B đã nhận lại bò nên không có yêu cầu bồi thường.

Bị hại S, Y, B đã nhận được tiền bồi thường, không yêu cầu bồi thường thêm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Xuân H đề nghị được nhận lại xe ôtô biển số: 47C-xxxxx vì xe là phương tiện lao động chính của gia đình.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 24.500.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Điều tra viên Công an huyện Y, tỉnh G, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh G, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, vì vậy có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cho mục đích cá nhân mà trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2022, Vi Văn T đã thực hiện 04 vụ trộm cắp 10 con bò có tổng giá trị 118.750.000 đồng tại các xã L P, Kon Thụp, K của huyện Y. Cụ thể: Ngày 21/3/2022, T trộm cắp 01 con bò có trị giá 16.250.000 đồng của ông B tại làng P N, xã K T; Ngày 28/5/2022, T trộm cắp 04 con bò có trị giá 45.500.000 đồng của ông S và bà Y tại làng Đ P N, xã K T; Ngày 01/8/2022 T trộm cắp 02 con bò có trị giá 30.600.000 đồng của ông B và ông A tại làng B, xã L P; Ngày 06/8/2022 T trộm cắp 03 con bò có trị giá 26.400.000 đồng của ông D tại làng Đ O, xã K. Vì vậy,Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo Vi Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[4] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo liên tục thực hiện 04 lần hành vi trộm cắp nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú và tự thú về 03 lần trộm cắp trước đó; đã tác động gia đình bồi thường dân sự, khắc phục hậu quả. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng cho bị cáo được quy định tại điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Về hình phạt: Bị cáo đã vi phạm pháp luật hình sự nên phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là phù hợp với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêm khắc, phòng ngừa, răn đe chung. Tuy nhiên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 24.500.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận và chấp nhận bồi thường vì vậy cần buộc bị cáo bồi thường số tiền này cho ông Nguyễn H.

[9] Về vật chứng vụ án: Vật chứng là 05 con bò và xe mô tô biển số 81E1- xxxxx đã được trả cho chủ sở hữu là phù hợp. Đối với xe ô tô biển số: 47C-xxxxx của ông Nguyễn Xuân H, khi thực hiện chở bò thuê cho bị cáo, ông H1 không biết bò do trộm cắp mà có nên cần trả lại xe ô tô biển số 47C-xxxxx cho ông H1. Đối với 01 điện thoại di động màu vàng bị cáo đã sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[10] Đối với những người có liên quan trong quá trình bị cáo mua bán bò tuy nhiên những người này không biết hành vi phạm tội của bị cáo nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y không xử lý là phù hợp.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 38; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, Tuyên bố bị cáo Vi Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản ”.

Xử phạt bị cáo Vi Văn T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 10/8/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự;

Buộc bị cáo Vi Văn T phải bồi thường cho ông Nguyễn H số tiền 24.500.000 đồng (Hai mươi bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật (Đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra Quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có Đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu vàng, mặt sau ghi chữ Poco, đã qua sử dụng.

- Trả lại xe ôtô biển số: 47C-xxxxx cho ông Nguyễn Xuân H.

(Đặc điểm cụ thể theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28 tháng 11 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y)

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Vi Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.225.000 đồng (Một triệu, hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Thời hạn kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (13/01/2023) bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm bò) số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Yang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;